1. Yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Hệ thống pháp luật có vai trò quan trọng trong việc quản lý đời sống xã hội nhằm đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Về bản chất, hệ thống pháp luật chính là chuẩn mực hướng dẫn hành vi cho tất cả các cá nhân, tổ chức, bao gồm cả Nhà nước khi tham gia vào các quan hệ xã hội; là thước đo thể hiện trình độ phát triển của đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng đó của pháp luật, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt với vấn đề xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật thông qua việc đề ra các tiêu chí, yêu cầu đối với hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48-NQ/TW) đã xác định yêu cầu của hệ thống pháp luật phải đạt được đó là “đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng diễn ra sau khi tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW đã tiếp tục kế thừa và bổ sung các tiêu chí của hệ thống pháp luật “đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”. Trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn chưa theo kịp yêu cầu phát triển, quản lý và bảo vệ đất nước trong tình hình mới, mà một trong những nguyên nhân của thực trạng này là do hệ thống pháp luật còn bất cập, chưa thực sự đáp ứng được đòi hỏi từ thực tiễn, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) đã đặt ra các yêu cầu đối với hệ thống pháp luật phải thực sự “dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo”; “khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước”. Trên cơ sở kế thừa các văn kiện trước đó của Đảng, Nghị quyết số 27-NQ/TW đã bổ sung một số nội dung mới tạo thành bộ tiêu chí cần đạt được đối với hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, có thể khái quát thành các yêu cầu về hình thức và nội dung cụ thể như sau:
- Về hình thức: Hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải “đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội”. Để có thể phát huy được tinh thần thượng tôn pháp luật, tôn trọng pháp luật từ mọi tầng lớp nhân dân, đòi hỏi pháp luật phải toàn diện, đầy đủ, kịp thời, sao cho các lĩnh vực chủ yếu, cơ bản đều có quy phạm pháp luật điều chỉnh; tránh tình trạng bỏ ngỏ, khoảng trống pháp lý. Bên cạnh đó, các quy phạm pháp luật phải thực sự rõ ràng, dễ hiểu, đơn nghĩa, đồng bộ, thống nhất, dễ tiếp cận. Các quy định của pháp luật là chuẩn mực hướng dẫn hành vi của mọi chủ thể cho xã hội, mà khi ở vào những hoàn cảnh giống nhau thì họ sẽ có cách thức xử sự như nhau. Nếu các quy định pháp luật “mập mờ”, đa nghĩa, mâu thuẫn, chồng chéo sẽ gây khó khăn khi thực hiện và là nguyên nhân của tình trạng vi phạm pháp luật. Trong trường hợp này, pháp luật chưa bảo đảm được bản chất của nó, qua đó, tính thượng tôn pháp luật không cao. Để đạt được các yêu cầu hình thức này, hệ thống pháp luật phải được xây dựng trên cơ sở kỹ thuật pháp lý cao, hiện đại; tức là phải trải qua quy trình, thủ tục chặt chẽ với nhiều khâu, nhiều bước logic, khoa học và áp dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 trong hoạt động xây dựng pháp luật.
- Về nội dung: Xuất phát từ bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và vai trò của pháp luật trong điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nên hệ thống pháp luật phải hướng tới chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc cho nhân dân. Nghị quyết số 27-NQ/TW đã bổ sung yêu cầu về “dân chủ, công bằng, nhân đạo” của hệ thống pháp luật. Có thể thấy, “dân chủ, công bằng, nhân đạo” là những giá trị mang tính cốt lõi trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các quy định của pháp luật muốn đi vào đời sống và điều chỉnh hiệu quả các quan hệ xã hội thì trước tiên phải thực sự “dân chủ”, tức là phù hợp với lợi ích của nhân dân, xuất phát từ “quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp”. Đây cũng là một điểm mới của Nghị quyết số 27-NQ/TW khi bổ sung thêm nội dung các quy phạm pháp luật theo hướng phải quan tâm, chú ý tới nhu cầu chính đáng của “tổ chức”; bên cạnh người dân, doanh nghiệp thì chủ thể này tham gia vào phần lớn quan hệ xã hội, đặc biệt là các mối quan hệ liên quan đến các lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục… góp phần vào sự phát triển đất nước. Tính “dân chủ” còn được thể hiện ở quy trình xây dựng pháp luật phải thực hiện xin ý kiến đóng góp rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân về nội dung chủ trương, chính sách dự kiến ban hành. Yêu cầu này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, khẳng định bản chất “dân chủ”, vị thế làm chủ của nhân dân trong chế độ xã hội chủ nghĩa; đồng thời, cũng là bước thăm dò dự thảo quy định có nhận được sự ủng hộ của của người dân, tổ chức, doanh nghiệp hay không để kịp thời sửa chữa, qua đó hướng tới tính khả thi của hệ thống pháp luật.
“Công bằng, nhân đạo” là một yêu cầu mới được Nghị quyết số 27-NQ/TW đặt ra với hệ thống pháp luật. “Công bằng” vừa là mục đích hướng tới, vừa là chuẩn mực để đánh giá hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tiêu chí “công bằng” đòi hỏi pháp luật phải là sự tiếp cận và xử lý đúng đắn, không thiên lệch các mối quan hệ cơ bản giữa cá nhân, tổ chức trong xã hội. “Lẽ công bằng” được ghi nhận tại khoản 3 Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là “lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ”. Nói tới “công bằng” là đã bao hàm và không tách rời “nhân đạo”. “Nhân đạo” là đạo đức, sự yêu thương, quý trọng, bảo vệ con người; thể hiện rõ bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa mà Nhà nước ta đã lựa chọn, cũng như truyền thống nhân văn của dân tộc Việt Nam. Yêu cầu này đặt ra với hệ thống pháp luật phải kết hợp nhuần nhuyễn giữa tinh hoa văn hóa nhân loại với truyền thống của dân tộc. Một hệ thống pháp luật công bằng, nhân đạo sẽ góp phần bảo đảm cao nhất quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; kiểm soát quyền lực nhà nước, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động của bộ máy nhà nước, nâng cao uy tín, hiệu quả quản lý nhà nước.
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 27-NQ/TW cũng chỉ ra rằng, hệ thống pháp luật cũng phải thúc đẩy đổi mới sáng tạo; khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Cần phải khẳng định rõ lợi ích của nhân dân luôn gắn liền với lợi ích của quốc gia, dân tộc. Đất nước có phát triển, hiện đại, vững mạnh thì mới có thể bảo đảm quyền của người dân, tổ chức, doanh nghiệp vì Nhà nước là chủ thể đầu tiên và sau cùng chịu trách nhiệm với vấn đề quyền con người, quyền công dân. Để đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Nghị quyết số 27-NQ/TW xác định rõ các lĩnh vực mà pháp luật cần tập trung hoàn thiện. Các lĩnh vực này bao quát tương đối toàn diện khía cạnh của đời sống xã hội, mặc dù đã được chú trọng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật với nhiều cấp độ hiệu lực khác nhau nhưng vẫn còn những hạn chế, bất cập cần tiếp tục được hoàn thiện nhằm đáp ứng được yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
2. Thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam thời gian qua
Trong những năm qua, hệ thống pháp luật của Việt Nam không ngừng được hoàn thiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, lao động, việc làm, an sinh xã hội…; cơ bản thể chế hóa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, chủ động hội nhập quốc tế trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thống kê số lượng luật được Quốc hội thông qua trong Quốc hội khóa XI, XII, XIII, XIV (kể từ khi Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 được Bộ Chính trị ban hành cho đến tháng 12/2020) là 329 luật, bộ luật[1]; đặc biệt, có nhiều văn bản quan trọng như Hiến pháp năm 2013, Luật Đất đai năm 2013, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), Luật Trưng cầu ý dân năm 2019, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016… Bên cạnh đó, các chủ thể có thẩm quyền cũng ban nhiều văn bản quy phạm pháp luật ở cấp độ dưới luật như pháp lệnh, nghị định, thông tư, nghị quyết, quyết định… để hướng dẫn, tổ chức thực hiện các quy định của luật. Chất lượng của hệ thống pháp luật ngày càng được nâng cao, về cơ bản đã bảo đảm được tính thống nhất, đồng độ, hợp hiến, hợp pháp. Tính công khai, minh bạch, rõ ràng có nhiều chuyển biến tích cực, từng bước được nâng lên.
Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được, hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn còn một số hạn chế, bất cập chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cụ thể:
Một là, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật lớn, đồ sộ, tồn tại tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, xung đột giữa các quy định gây khó khăn trong việc thực hiện pháp luật. Báo cáo số 145/BC-BTP ngày 31/5/2019 của Bộ Tư pháp về kết quả hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật thống nhất trong cả nước kỳ 2014 - 2018 chỉ ra: Tổng số văn bản còn hiệu lực ở trung ương là 8.748; cấp tỉnh là 27.974; cấp huyện là 12.844; cấp xã là 11.726. Số liệu trên cho thấy, hệ thống pháp luật Việt Nam đồ sộ, những văn bản ở các cấp độ hiệu lực khác nhau do nhiều chủ thể ban hành; thực trạng này tác động không nhỏ đến khả năng tìm kiếm, tiếp cận quy định của người dân, tổ chức, doanh nghiệp và kể cả các cơ quan nhà nước trong quá trình thực thi công vụ. Đồng thời, vẫn còn tồn tại tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các luật, bộ luật; giữa văn bản hướng dẫn luật này với văn bản hướng dẫn luật khác. Điển hình nhất là sự chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực: Đất đai, đầu tư, xây dựng, quy hoạch; nhà ở, kinh doanh bất động sản, môi trường, vệ sinh, an toàn thực phẩm… Trong báo cáo của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã đề cập đến 20 điểm xung đột, chồng chéo lớn của pháp luật về đầu tư, đất đai, xây dựng, môi trường, đấu thầu, tiêu biểu như giữa các văn bản luật: Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Quy hoạch đô thị, Luật Đấu thầu; Luật Nhà ở[2]… Hạn chế dẫn đến việc tạo cơ hội để các chủ thể “lách luật” thực hiện hành vi tham nhũng, tiêu cực trong xã hội.
Hai là, một số văn bản quy phạm pháp luật có “tuổi thọ” ngắn, thường xuyên thay đổi. Để thực hiện hiệu quả chức năng điều chỉnh, đòi hỏi các quy định phải có tính dự báo về xu hướng phát triển của các quan hệ xã hội; tuy nhiên, một số văn bản quy phạm pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu này dẫn đến tính ổn định còn thấp, tần suất sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, thay thế cao. Thực tiễn cho thấy, trung bình 10 năm, Quốc hội sẽ thực hiện rà soát, sửa đổi, bổ sung, thay thế các luật, bộ luật, như: Luật Đất đai, Bộ luật Dân sự; có những luật thời gian ngắn hơn như Luật Doanh nghiệp, Luật Tổ chức chính quyền địa phương… Cá biệt, có những bộ luật quan trọng như Bộ luật Hình sự năm 2015 phải tạm hoãn thi hành để thực hiện sửa đổi, bổ sung, khắc phục những sai sót còn tồn tại. Việc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật để phù hợp với điều kiện khách quan của đất nước là cần thiết, tuy nhiên, nếu thường xuyên thay đổi sẽ gây khó khăn trong quá trình thực hiện pháp luật, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của người dân, tổ chức, doanh nghiệp. Thực trạng này cũng phản ánh vấn đề trình độ kỹ thuật xây dựng pháp luật của nước ta chưa đạt được trình độ cao.
Ba là, chất lượng một số văn bản quy phạm pháp luật chưa cao, chưa phù hợp với thực tiễn, thiếu tính khả thi. Các văn bản quy phạm pháp luật muốn đi vào đời sống xã hội thì trước hết phải xuất phát từ chính thực tiễn đời sống xã hội, hay nói cách khác, các quy định của pháp luật phải phù hợp với thực tiễn; tuy nhiên, trong thời gian qua, có không ít quy định chưa thực sự phù hợp với thực tiễn cuộc sống, làm giảm hiệu quả điều chỉnh của pháp luật. Mặc dù, các quy định này đã được hủy bỏ ngay sau khi nhận được sự phản hồi từ các tầng lớp trong xã hội nhưng gây nên bức xúc trong dư luận xã hội; tốn kém kinh phí, thời gian phát sinh trong quá trình xử lý văn bản không phù hợp.
Bốn là, còn tình trạng ban hành văn bản sai về thẩm quyền, nội dung, hình thức, thủ tục. Qua công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật của Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp cho thấy, tỷ lệ ban hành văn bản quy phạm pháp luật không đúng thẩm quyền, nội dung và văn bản không phải văn bản quy phạm pháp luật nhưng lại chứa đựng quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở nước ta vẫn còn tồn tại, năm 2016 là 88 văn bản[3], năm 2017 là 131 văn bản[4], năm 2018 là 84 văn bản[5], năm 2019 là 152 văn bản[6].
3. Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức Đảng đối với công tác hoàn thiện pháp luật: Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự Đảng Chính phủ, Đảng bộ địa phương và cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp tổ chức quán triệt đầy đủ; xây dựng chương trình, kế hoạch nhằm triển khai có hiệu quả nhiệm vụ thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật; nhất là Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nghị quyết số 27-NQ/TW. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với hoạt động xây dựng pháp luật, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các sai phạm, tránh tình trạng “tham nhũng, lợi ích nhóm” trong ban hành chính sách, pháp luật.
Thứ hai, đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả: Quy định rõ ràng, tách bạch quy trình xây dựng chính sách với quy trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá tác động chính sách toàn diện, đa chiều, phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Tập trung phân tích tác động chính sách tới đời sống xã hội theo hướng bảo đảm cả hai nội dung định tính và định lượng, tránh đánh giá mang tính chất chung chung theo kiểu “sau khi chính sách, pháp luật được ban hành sẽ nâng cao đời sống của người dân” nhưng lại không làm rõ được đời sống của người dân được cải thiện như thế nào, thu nhập tăng lên bao nhiêu.
Bên cạnh đó, hoàn thiện cơ chế phản biện xã hội, giải trình và tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Đổi mới cách thức lấy ý kiến của nhân dân theo hướng phân loại đối tượng cụ thể để lấy ý kiến về những vấn đề còn nhiều bàn luận, tranh cãi; vấn đề liên quan trực tiếp đến họ; tránh xin ý kiến tràn lan, không trọng tâm, trọng điểm.
Ngoài ra, nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ ba, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là khâu đầu vào then chốt giúp nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cũng như nâng cao tinh thần trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật. Hiện nay, có nhiều chương trình bồi dưỡng về lĩnh vực này nhưng còn nặng về lý thuyết mà thiếu tính thực tế nên hiệu quả thấp. Chương trình bồi dưỡng về xây dựng văn bản không chỉ đặt ra với các cơ quan xây dựng luật, các trường đào tạo luật mà cần mở rộng hơn nữa để phổ biến kiến thức cho nhiều người. Đó là cơ sở để phát hiện các “sai trái” trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật; những người có trách nhiệm soạn thảo văn bản và giám sát công việc này cần được bồi dưỡng thường xuyên để tránh các sai lầm không đáng có.
Thứ tư, bảo đảm các điều kiện vật chất trong hoạt động xây dựng pháp luật: Cần quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí thỏa đáng cho công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đầu tư hiệu quả sẽ nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Việc đầu tư không thỏa đáng dẫn đến hậu quả chất lượng ban hành văn bản không cao, văn bản quy phạm pháp luật khi ban hành có sức sống và tính ổn định của văn bản kém, thường xuyên phải sửa đổi hoặc bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.
Thứ năm, tập trung hoàn thiện các quy định của pháp luật trong một số lĩnh vực như: Tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị; phát huy dân chủ, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ; phát triển nguồn nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân tài; văn hóa, thông tin, truyền thông, thể thao, y tế, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn; tư pháp, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết, đòi hỏi tính tích cực, chủ động và sáng tạo rất lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Trong thời gian tới, cần phát huy những trong hoạt động xây dựng pháp luật; đồng thời, khắc phục những hạn chế còn tồn đọng, góp phần tạo dựng hành lang pháp lý, chuẩn mực hành vi cho các chủ thể trong quá trình hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
ThS. Lục Việt Dũng
Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị khu vực I
[1]. Dương Thị Tươi, Xây dựng pháp luật ở Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2021, tr. 260.
[2]. Hoàng Thị Kim Quế, Lê Thị Phương Nga, Những hạn chế chủ yếu và giải pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay, nguồn: https://noichinh.vn.
[3]. Bộ Tư pháp, Báo cáo số 123/BC-BTP ngày 27/4/2017 về công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật năm 2016 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp năm 2017.
[4]. Bộ Tư pháp, Báo cáo số 100/BC-BTP ngày 24/4/2018 về công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật năm 2017 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp năm 2018.
[5]. Bộ Tư pháp, Báo cáo số 126/BC-BTP ngày 06/5/2019 về công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật năm 2018 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp năm 2019.
[6]. Bộ Tư pháp, Báo cáo số 98/BC-BTP ngày 29/4/2020 về công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật năm 2019 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp năm 2020.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 389), tháng 9/2023)