Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện là một phương hướng tích cực, nhân văn vì mục tiêu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Với tinh thần trên, hoạt động bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em đã từng bước bảo đảm quyền của các em về học tập, chăm sóc sức khỏe, tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác này vẫn còn một số hạn chế. Vì vậy, để bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em ở Việt Nam, việc đánh giá thực trạng để đưa ra các giải pháp thích hợp cho thời gian tới là rất cần thiết.
2. Một số vấn đề lý luận về bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em
2.1. Khái niệm quyền trẻ em
Quyền trẻ em là những quyền cơ bản và thiết yếu của trẻ em, được quy định trong các văn bản pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, nhằm bảo đảm cho trẻ em được phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần và đạo đức.
Trong hệ thống pháp luật quốc tế, quyền trẻ em được chế định chủ yếu trong Công ước về quyền trẻ em năm 1989 và hai nghị định thư không bắt buộc, đó là: Nghị định thư không bắt buộc về việc buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em; Nghị định thư về việc lôi cuốn trẻ em tham gia xung đột vũ trang. Trên cơ sở Công ước về quyền trẻ em năm 1989, các điều ước quốc tế cũng như hệ thống pháp luật quốc gia, quyền trẻ em được xác định bao gồm bốn nhóm quyền sau:
- Nhóm quyền sống còn: Mọi trẻ em đều có quyền được sống. Các chủ thể cần phải làm tất cả những việc có thể để bảo đảm rằng trẻ em được đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất để tồn tại và phát triển như bảo đảm về dinh dưỡng, chăm sóc sức khoẻ và có quyền được khai sinh.
- Nhóm quyền được phát triển: Trẻ em được chăm sóc, dạy dỗ, tạo điều kiện để phát triển toàn diện thông qua quá trình học tập, vui chơi, giải trí…
- Nhóm quyền được bảo vệ: Trẻ em được sống chung với cha mẹ và được bảo vệ chống lại các hình thức bóc lột lao động, xâm hại tình dục, đối xử vô nhân đạo…
- Nhóm quyền được tham gia: Trẻ em được phát huy vai trò tích cực trong cộng đồng, gia đình thông qua sự tự do thể hiện quan điểm, bày tỏ ý kiến cá nhân, tiếp cận thông tin liên quan đến bản thân[1].
2.2. Tầm quan trọng của bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em
Sự hình thành và phát triển của quyền con người nói chung và quyền trẻ em nói riêng phản ánh các mong ước cũng như nguyện vọng của con người trong từng thời kỳ. Trẻ em là thế hệ tương lai của đất nước, là nguồn lực quý giá cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi trẻ em được hưởng đầy đủ các quyền, trẻ em sẽ có cơ hội phát triển toàn diện, trở thành những công dân có ích cho xã hội. Do vậy, việc bảo vệ và phát triển trẻ em thể hiện đòi hỏi cấp thiết trong xây dựng một xã hội văn minh, phát triển bền vững.
Có thể thấy, “bảo vệ” và “thúc đẩy” quyền trẻ em là hai khía cạnh thiết yếu, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình bảo đảm trẻ em được hưởng đầy đủ các quyền lợi chính đáng. Bảo vệ quyền trẻ em tập trung vào việc thiết lập các khuôn khổ pháp lý và áp dụng các biện pháp chế tài để ngăn chặn, phòng ngừa các hành vi xâm hại quyền trẻ em. Thúc đẩy quyền trẻ em có thể coi như một “bước tiến” xa hơn cho việc bảo đảm những quyền đã được ghi nhận thông qua những biện pháp cụ thể hơn, nhằm bảo đảm thực hiện quyền một cách tốt nhất trong thực tiễn. Bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em cần được thực hiện đồng bộ, song song và liên tục. Việc chỉ tập trung vào một khía cạnh sẽ không thể bảo đảm trẻ em được hưởng đầy đủ các quyền lợi. Do đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, gia đình, nhà trường và các chủ thể khác để thực hiện hiệu quả việc bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em. Mỗi cá nhân cũng cần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của bản thân trong việc bảo vệ và tạo điều kiện cho trẻ em phát triển toàn diện.
3. Thực trạng bảo đảm quyền trẻ em sau 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013
3.1. Đối với nhóm quyền sống còn
Hiến pháp năm 2013 coi quyền trẻ em là một bộ phận của quyền con người, cụ thể hóa quyền trẻ em phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện đất nước. Đơn cử Điều 19 Hiến pháp năm 2013 quy định “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”. Trên tinh thần đó, Luật Trẻ em năm 2016 đã dành các quy định từ Điều 12 đến Điều 15 để quy định về quyền sống, quyền được khai sinh và có quốc tịch, quyền được chăm sóc sức khoẻ, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã ghi nhận quyền sống là quyền đặc thù và quan trọng của trẻ em thông qua hình sự hóa các hành vi xâm hại hoặc đe dọa tính mạng trẻ em cũng như quy định mức hình phạt đối với các tội xâm phạm quyền sống của trẻ em nhằm thể hiện tính răn đe, trừng trị nghiêm khắc, phòng ngừa. Luật Hộ tịch năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng từng bước hoàn thiện thể chế trong bảo đảm quyền đăng ký khai sinh trong đó có nội dung xác định quốc tịch của trẻ em. Đây là các cơ sở pháp lý cơ bản để các cơ quan nhà nước bố trí ngân sách, tổ chức chỉ đạo đồng bộ cũng như phối hợp với các cá nhân, tổ chức trong xã hội tham gia các chương trình, dự án như: Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2021 - 2030, Chính sách hỗ trợ phẫu thuật tim cho trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh, Quyết định số 1404/QĐ-BTP ngày 25/7/2023 của Bộ Tư pháp ban hành Đề án: “Thí điểm liên thông dữ liệu cấp Giấy chứng sinh, Giấy báo tử, thông tin tử vong để thực hiện thủ tục đăng ký khai sinh, đăng ký khai tử trên môi trường điện tử”… Bên cạnh đó, nhận thức rõ những khó khăn mà trẻ em đang phải đối mặt, đặc biệt là sau dịch bệnh, thiên tai, các cơ quan, tổ chức đã tích cực vận động nguồn lực xã hội và triển khai hàng loạt hoạt động hỗ trợ thiết thực cho trẻ em như cung cấp nhu yếu phẩm, hệ thống nước sạch, dịch vụ chăm sóc sức khỏe,...
Theo Báo cáo: “Tình trạng Trẻ em trên thế giới năm 2023: Tiêm chủng cho mọi trẻ em” của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc (UNICEF), trong công tác bảo vệ và thúc đẩy nhóm quyền sống còn của trẻ em, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ. Từ năm 2000 đến 2021, tỷ lệ tử vong ở trẻ dưới 05 tuổi đã giảm đáng kể (từ 30 xuống 21 trẻ/1.000 ca sinh sống)[2], đối với trẻ từ 5 - 14 tuổi, tỷ lệ tử vong năm 2021 cũng giảm 2/3 so với năm 1990 (từ 10 xuống 03 trẻ/1.000 ca sinh sống). Tỷ lệ trẻ em dưới 01 tuổi được đăng ký khai sinh giai đoạn 2012 - 2021 là 88% (cao hơn mức trung bình thế giới là 72%)[3]. Tỷ lệ tiêm chủng cho trẻ em dưới 01 tuổi trong cả nước đạt kết quả như sau: Năm 2018: 94,8%; 2020: 96,8%; 2021: 87,1%; 2022 (tạm tính): 87,6%. Trẻ em dưới 06 tuổi được khám, chữa bệnh hoàn toàn miễn phí; đối với lứa tuổi lớn hơn thì Nhà nước hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn tình trạng trẻ em không được hưởng đầy đủ quyền của mình. Đơn cử như tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh dưới 01 tuổi, suy dinh dưỡng ở trẻ em còn khá cao, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền núi. Ước tính của Liên Hợp quốc, năm 2021, cứ 1.000 trẻ sinh ra ở Việt Nam thì có gần 10 trẻ sơ sinh tử vong[4]. Năm 2022, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 05 tuổi là 19,2%, tỷ lệ trẻ em nghèo đa chiều là 10,9% nghĩa là các em không được thực hiện hai trong số các quyền cơ bản về giáo dục, y tế, dinh dưỡng, nhà ở, hòa nhập xã hội, nước sạch và vệ sinh[5]. Mặt khác, tình trạng trẻ em không có giấy khai sinh do khuyết tật, mồ côi, gia đình khó khăn,… đã khiến cho các em không được hưởng các chính sách bảo hiểm, chăm sóc sức khỏe và các chính sách phúc lợi khác mà các em xứng đáng được hưởng.
3.2. Đối với nhóm quyền được phát triển
Quyền được phát triển đóng vai trò điều kiện tiên quyết để trẻ em có thể phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần. Đây là nền tảng cho một tương lai tươi sáng, góp phần tạo nên những thế hệ công dân khỏe mạnh, hạnh phúc và cống hiến cho xã hội. Nội dung này đã được Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 37: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục”. Cụ thể hóa nội dung của Hiến pháp năm 2013, quyền học tập của trẻ em được thể hiện ở cấp độ văn bản luật như: Luật Trẻ em năm 2016 và Luật Giáo dục năm 2019 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành, tạo hành lang pháp lý cho việc xây dựng nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; xác định trách nhiệm của nhà nước, gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục thế hệ tương lai. Trong 10 năm giai đoạn 2011 - 2020, mức đầu tư cho giáo dục luôn đạt hơn 13% tổng chi ngân sách nhà nước[6]. Nhờ đó, trẻ em 05 tuổi và trẻ em ở lứa tuổi tiểu học được thụ hưởng chương trình giáo dục bắt buộc, không phải trả tiền học phí nếu học ở các trường công lập. Đến nay, 98,2% trẻ em ở Việt Nam đi học đúng tuổi bậc tiểu học[7]. Đặc biệt, sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội giúp tăng cường hứng thú học tập của trẻ, tạo động lực cho giáo viên cũng như hạn chế tư tưởng “khoán trắng” của phụ huynh dành cho cơ sở giáo dục trong công tác giáo dục trẻ em.
Vui chơi, giải trí đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển toàn diện của trẻ em, cả về thể chất lẫn tinh thần. Trong thời đại công nghệ số, khi trẻ em tiếp xúc sớm với các ứng dụng khoa học, kỹ thuật tiên tiến, việc vui chơi giải trí lành mạnh càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Tại Việt Nam, quyền vui chơi, giải trí của trẻ em được luật hóa trong Luật Trẻ em năm 2016, là một trong 24 quyền cơ bản của trẻ em. Luật Đất đai năm 2024 quy định khuyến khích sử dụng đất vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng (Điều 79), trong đó trẻ em là đối tượng thụ hưởng. Với mục tiêu “Hoạt động vui chơi giải trí là một trong 05 lĩnh vực hoạt động chăm sóc trẻ em của chương trình hành động vì trẻ em”, ngày càng nhiều khu dân cư có khu vui chơi, giải trí cho trẻ em. Hệ thống cơ sở vui chơi cho trẻ em như: Cung thiếu nhi, Trung tâm văn hóa, thư viện, công viên, rạp chiếu phim,... được đầu tư xây dựng. Nhiều quận, huyện quan tâm quy hoạch đất đai để xây dựng điểm vui chơi tại cộng đồng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, kết quả đã đạt được, vấn đề bảo đảm quyền được phát triển của trẻ em vẫn có những khó khăn, thách thức. Điều này thể hiện ở mức chi ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2013 - 2023 dành cho giáo dục vẫn không đạt chỉ tiêu tối thiểu theo 20% theo Luật Giáo dục năm 2019[8]. Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 cho thấy, ở Việt Nam hiện có 8,3% trẻ em trong độ tuổi đi học phổ thông nhưng không đến trường; số lượng này tập trung chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa, miền núi. Bên cạnh đó, thiếu điểm vui chơi là một vấn đề nhức nhối, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển toàn diện của trẻ em. Việc quy hoạch, đầu tư và quản lý các điểm vui chơi cho trẻ em chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến thiếu hụt về số lượng và chất lượng các sân chơi dành cho trẻ em.
3.3. Đối với nhóm quyền được bảo vệ
Trẻ em, những mầm non tương lại của đất nước, tuy chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, nhưng không vì thế mà các em không có khả năng cảm nhận được sự an toàn hay nguy hiểm. Do đó, tạo dựng một môi trường sống được bảo vệ cho trẻ là vô cùng quan trọng, góp phần cho sự phát triển toàn diện của các em. Cùng với việc từng bước nội luật hóa các điều ước quốc tế, Việt Nam đã sớm xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ trẻ em. Khoản 1 Điều 37 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”. Luật Trẻ em năm 2016 đã chỉ rõ 14 hành vi vi phạm quyền trẻ em bị nghiêm cấm, như: Cấm hành vi tước đoạt quyền sống của trẻ em; cấm hành vi bỏ rơi, bỏ mặc, mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; xâm hại tình dục, bạo lực, lạm dụng, bóc lột trẻ em... (Điều 10). Bộ luật Hình sự năm 2015 dành riêng một Chương XII là những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm khẳng định: “xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội” (khoản 1 Điều 91). Liên quan đến vấn đề này, để bảo đảm quyền của trẻ em được sống chung với cha mẹ, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về quyền khởi kiện xác định cha, mẹ cho con là người chưa thành niên của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, đã tạo cơ sở pháp lý cho việc xác định cha, mẹ của trẻ em trong trường hợp các em bị thất lạc cha mẹ hoặc bị cha, mẹ chối bỏ (Điều 187). Mặt khác, Bộ luật Lao động năm 2019 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh của pháp luật về lao động, cụ thể trường hợp lao động chưa thành niên là người dưới 15 tuổi chỉ được phép tham gia các công việc phù hợp với sức khỏe, bảo đảm sự phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần và nhân cách. Người sử dụng lao động có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc lao động chưa thành niên về mọi mặt, bao gồm cả điều kiện lao động, sức khỏe và học tập trong quá trình làm việc. Việc sử dụng lao động chưa thành niên cần có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp.
Bảo vệ trẻ em không chỉ đơn thuần là cung cấp các dịch vụ hỗ trợ và can thiệp khi xảy ra vi phạm pháp luật, mà quan trọng hơn là phòng ngừa các hành vi vi phạm và bảo vệ trẻ em khỏi nguy cơ trở thành nạn nhân. Việt Nam đang thí điểm triển khai hệ thống bảo vệ trẻ em đa cấp độ, bao gồm: Phòng ngừa, can thiệp và hỗ trợ phục hồi. Mạng lưới phối hợp giữa các cơ quan chức năng và tổ chức xã hội trong việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em được từng bước hình thành và kiện toàn. Việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa hiệu quả đóng vai trò quan trọng, trong đó, các tổ chức hỗ trợ - bảo vệ trẻ em và các chuyên gia, nhà hoạt động xã hội đóng vai trò then chốt. Nhờ đó, các em được bảo vệ, phát triển toàn diện và có cơ hội tốt đẹp để trở thành những công dân có ích cho xã hội.
Mặc dù vậy, theo báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, mỗi năm trung bình cả nước có hơn 1.200 trẻ em bị xâm hại tình dục (chiếm hơn 60% số vụ xâm hại trẻ em - trong đó có những vụ bạo hành thể chất, tinh thần khác đối với các em)[9]; 72,4% trẻ em từng bị phạt bạo lực tại gia đình[10]. Bên cạnh đó, vấn đề sử dụng lao động trẻ em tại nhiều tỉnh, thành trong cả nước càng gia tăng; vì thiếu kinh nghiệm, học vấn nên lao động trẻ em được trả lương thấp, thậm chí bị hành hạ, bóc lột, ngược đãi. Mặt khác, tình trạng trẻ em không được sự chăm sóc trực tiếp của cha mẹ vẫn đang là vấn đề thách thức lớn trong công tác bảo vệ trẻ em, cụ thể 18,3% trẻ em có bố hoặc mẹ hoặc cả bố và mẹ cùng sống ở nơi khác[11], đặc biệt đại dịch Covid-19 đã làm 4.461 trẻ em Việt Nam rơi vào cảnh mồ côi, không nơi nương tựa[12].
3.4. Đối với nhóm quyền được tham gia
Quyền được tham gia là một trong bốn nhóm quyền cơ bản của trẻ em. Quyền được tham gia giúp trẻ em đóng vai trò chủ động và tích cực trong cuộc sống của mình. Thực hiện quyền được tham gia của trẻ em là thực hiện nội dung mà Hiến pháp năm 2013 quy định tại khoản 1 Điều 37, trẻ em “được tham gia vào các vấn đề về trẻ em”, thực hiện một số quyền của trẻ em theo Luật Trẻ em năm 2016 như: Quyền được tiếp cận thông tin và tham gia hoạt động xã hội (Điều 33); Quyền được bày tỏ ý kiến và hội họp (Điều 34). Bên cạnh đó, nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ em, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ghi nhận nguyên tắc giao con dưới 36 tháng tuổi cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, trẻ em từ đủ 07 tuổi có quyền được bày tỏ ý kiến mong muốn được sống chung với cha hoặc mẹ trong trường hợp cha mẹ ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con (Điều 81). Với tinh thần “lắng nghe trẻ em nói”, các diễn đàn trẻ em, các cuộc gặp gỡ trẻ em đã được tổ chức để các em được bày tỏ những ý kiến, quan điểm và đối thoại với lãnh đạo đại diện cơ quan Nhà nước, Ủy ban của Quốc hội... về các chủ đề mà mình quan tâm như vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ an toàn cho trẻ em trên môi trường mạng, bảo vệ trẻ em khỏi các hình thức bóc lột và xâm hại, sức khỏe tâm thần của trẻ, quyền trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS...[13]. Đặc biệt, trong kỷ nguyên số, các cơ sở dữ liệu quốc gia cũng như sự bùng nổ của internet đã hỗ trợ tích cực cho trẻ em trong tiếp cận thông tin, tìm đến các nền tảng tri thức hữu ích.
Tuy nhiên, tình trạng trẻ em tiếp cận các thông tin xấu, độc trên internet như các hình ảnh bạo lực, nội dung lừa đảo, cá độ,… đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển nhân cách của các em. Thậm chí, vì nhiều lý do khác nhau, thông tin cá nhân của trẻ em bị lộ trên không gian mạng, gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền bí mật đời sống riêng tư của các em, như hình ảnh bị sử dụng để quảng cáo các sản phẩm không phù hợp, bị bắt cóc, bị chế giễu, kỳ thị,…
4. Một số giải pháp tiếp tục bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em trong giai đoạn hiện nay
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam, dân số nước ta đạt 98.506.193 người vào năm 2021. Trong đó, trẻ em chiếm một tỷ lệ đáng kể với hơn 26 triệu em, đóng vai trò chủ chốt trong cơ cấu dân số. Do vậy, việc quan tâm đến thế hệ tương lai này là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, vấn đề bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em vẫn còn một số hạn chế và nguyên nhân đến từ sự thiếu hoàn thiện của hệ thống pháp luật, sự thiếu nhận thức của các chủ thể trong xã hội, sự phối hợp của các thiết chế và trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức làm công tác liên quan đến quyền trẻ em vẫn còn hạn chế. Cùng với đó, là tình trạng thiếu hụt nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất dành cho trẻ em. Do vậy, muốn quyền trẻ em được bảo đảm và thúc đẩy tốt hơn trong giai đoạn hiện nay, cần thực hiện đồng bộ hệ thống giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục đánh giá, hoàn thiện hệ thống pháp luật về trẻ em.
Trước hết, nghiên cứu nâng mức trần độ tuổi được xác định là trẻ em từ 16 lên 18 tuổi để tương thích với hệ thống pháp luật quốc tế cũng như bảo đảm sự quan tâm của xã hội đối với quá trình từng bước trưởng thành về thể chất, tinh thần của trẻ em. Bổ sung quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc “kiểm tra, giám sát” hoạt động bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến bạo lực học đường, xâm hại tình dục, bắt nạt trực tuyến,… Sớm thông qua Luật Tư pháp người chưa thành niên để áp dụng các biện pháp “xử lý chuyển hướng” nhằm thay thế các hình phạt trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với hành vi xâm hại sức khỏe, nhân phẩm bằng biện pháp nhân văn, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi nhưng vẫn bảo đảm nguyên tắc và tính nghiêm minh của pháp luật.
Thứ hai, nâng cao nhận thức của mọi chủ thể trong xã hội về bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em.
Cần tăng cường tuyên truyền về các chế độ, chính sách liên quan đến quyền trẻ em cũng như mối quan hệ giữa việc bảo đảm quyền trẻ em đối với quá trình phát triển của từng gia đình cũng như cả cộng đồng. Đặc biệt, chú trọng tổ chức các chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức về giáo dục, bảo vệ, chăm sóc trẻ em, bảo đảm an toàn cho trẻ em; xây dựng chuyên trang, chuyên mục trên các báo, đài; ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động tuyên truyền, tư vấn đối với gia đình và cộng đồng. Từ đó, kịp thời tuyên truyền các điển hình tiên tiến, các tấm gương người tốt, việc tốt, phê phán, lên án các hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em.
Thứ ba, đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động các thiết chế trong bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em ở Việt Nam.
Củng cố, kiện toàn hệ thống các cơ quan giám sát việc thi hành các chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền trẻ em. Phát huy tinh thần trách nhiệm của gia đình, nhà trường, chủ động tạo ra những mối quan hệ phối hợp với các chủ thể khác trong tiếp nhận các thông tin, kiến nghị, ý kiến của trẻ em cũng như xác minh kịp thời, nhanh chóng đối với các hành vi xâm phạm quyền trẻ em.
Thứ tư, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu bảo đảm quyền trẻ em.
Tăng cường tập huấn, trang bị kiến thức pháp luật về các nội dung liên quan đến quyền trẻ em. Từ đó, hướng tới mục tiêu xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức vừa hồng, vừa chuyên, thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ và giảm thiểu nguy cơ xâm phạm quyền của trẻ em. Mặt khác, cần tổ chức rà soát, điều chỉnh và thực hiện tốt quy hoạch phát triển nhân lực đáp ứng yêu cầu về chất lượng, số lượng. Đặc biệt, cần quan tâm đến đội ngũ cán bộ bảo vệ trẻ em tại cộng đồng để nâng cao tinh thần trách nhiệm phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền trong bảo đảm quyền cho người dưới 16 tuổi.
Thứ năm, đáp ứng đầy đủ các điều kiện về tài chính, cơ sở vật chất trong bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em.
Phân bổ ngân sách hợp lý cũng như huy động và đa dạng hóa các nguồn viện trợ để phát triển các cơ sở chăm sóc y tế, giáo dục, bảo trợ xã hội, vui chơi, giải trí dành cho trẻ em. Đồng thời, cần xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù chăm lo giáo dục, đào tạo, y tế, tạo sinh kế phát triển bền vững tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số nhằm giúp cho trẻ em tại đây có cơ hội được học tập, được chăm sóc sức khỏe, được phát triển toàn diện và có cuộc sống tốt đẹp hơn.
5. Kết luận
Hiến pháp năm 2013 đã tạo điều kiện thuận lợi cho các quy định về quyền trẻ em được ghi nhận và thực thi trên thực tế. Tuy vậy, vẫn còn tồn tại một số hạn chế trong công tác bảo vệ và thúc đẩy các nhóm quyền sống còn, phát triển, bảo vệ và tham gia của trẻ em. Đây là vấn đề cần được đặt ra cho toàn bộ hệ thống chính trị cũng như các tổ chức, cá nhân trong giai đoạn tới nhằm nâng cao hơn nữa năng lực những chủ nhân tương lai của đất nước trong thời gian sắp tới./.
Lại Sơn Tùng
Học viện Chính trị khu vực I
[1].https://giadinh.bvhttdl.gov.vn/quyen-va-bon-phan-cua-tre-em/#:~:text=Nh%C3%B3m%20quy%E1%BB%81n%20s%E1%BB%91ng%20c%C3%B2n%3A%20Tr%E1%BA%BB,kh%E1%BB%8Fe%20khi%20b%E1%BB%8B%20%E1%BB%91m%20%C4%91au
[2]. UNICEF (2023), The State of the World’s Children 2023: For every child, vaccination, UNICEF Innocenti - Global Office of Research and Foresight, Florence, tr. 139.
[3]. UNICEF (2023), The State of the World’s Children 2023: For every child, vaccination, UNICEF Innocenti - Global Office of Research and Foresight, Florence, tr. 182.
[4]. Nhật (2023), Cứ 1.000 trẻ sinh ra ở Việt Nam thì có gần 10 trẻ sơ sinh tử vong, https://daibieunhandan.vn/suc-khoe/cu-1-000-tre-sinh-ra-o-viet-nam-thi-co-gan-10-tre-so-sinh-tu-vong-i343536/, truy cập ngày 11/8/2024.
[5]. UNICEF (2022), Chương trình Trẻ em Việt Nam, https://www.unicef.org/vietnam/vi/tre-em-viet-nam, truy cập ngày 11/8/2024.
[6]. Dương Xuân Thành (2024), Bức tranh ngân sách giáo dục qua những con số, https://giaoduc.net.vn/buc-tranh-ngan-sach-giao-duc-qua-nhung-con-so-1-post240816.gd, truy cập ngày 11/8/2024.
[7]. Tổng cục Thống kê Việt Nam và UNICEF (2021), Báo cáo kết quả Điều tra các mục tiêu phát triển bền vững về trẻ em và phụ nữ Việt Nam 2020 - 2021.
[8]. Quý Hiên - Tuệ Nguyễn (2023), Ngân sách cho giáo dục chưa đạt tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước, https://thanhnien.vn/ngan-sach-cho-giao-duc-chua-dat-toi-thieu-20-tong-chi-ngan-sach-nha-nuoc-18523121409434821.htm, truy cập ngày 11/8/2024.
[9]. Vũ Thị Phượng (2017), Bảo vệ trẻ em bằng pháp luật và sự chung tay của nhiều chủ thể, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20 (348) tháng 10/2017.
[10]. Tổng cục thống kê Việt Nam (2023), Niên giám thống kê năm 2022, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
[11]. Tổng cục Thống kê Việt Nam và UNICEF (2021), Báo cáo kết quả Điều tra các mục tiêu phát triển bền vững về trẻ em và phụ nữ Việt Nam 2020 - 2021, tr. 99.
12]. Xuân Đức (2022), Việt Nam có hơn 4.400 trẻ em mồ côi do Covid-19, https://nhandan.vn/viet-nam-co-hon-4400-tre-em-mo-coi-do-covid-19-post703582.html, truy cập ngày 11/8/2024.
[13]. Hướng Dương (2022), Quyền tham gia của trẻ em trong hoạt động cộng đồng, https://treemvietnam.net.vn/quyen-tham-gia-cua-tre-em-trong-hoat-dong-cong-dong-d521.html, truy cập ngày 11/8/2024.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 411), tháng 8/2024)