
Nghị định số 121/2025/NĐ-CP được xây dựng trên tinh thần đẩy mạnh việc phân cấp từ cơ quan trung ương cho chính quyền địa phương nhằm tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương, tạo sự chủ động cho chính quyền địa phương để kịp thời giải quyết các khó khăn, phục vụ tốt hơn yêu cầu của người dân, tổ chức.
Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp tập trung vào 02 nhóm nội dung: (i) Nội dung về phân quyền (thẩm quyền gốc được quy định tại luật, nghị quyết, pháp lệnh của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội) và nội dung về phân cấp (thẩm quyền gốc được quy định tại nghị định, nghị quyết của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ) xuống chính quyền địa phương cấp tỉnh và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và (ii) Nhóm nội dung về trình tự, thủ tục và hồ sơ thực hiện các nội dung được phân quyền, phân cấp (được quy định cụ thể tại các Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định).
Nội dung về phân quyền, phân cấp
Về nguyên tắc, Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đẩy mạnh việc phân quyền, phân cấp giải quyết các thủ tục hành chính cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ, Bộ trưởng chỉ trực tiếp thực hiện các thủ tục hành chính có tính chất phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến tổ chức, cá nhân có yếu tố nước ngoài như đã nêu trên.
(i) Lĩnh vực đấu giá tài sản: Phân quyền 03/03 thủ tục hành chính về cấp, thu hồi, cấp lại chứng chỉ hành nghề đấu giá (từ Điều 4 đến Điều 6).
(ii) Lĩnh vực trọng tài thương mại: Phân quyền, phân cấp 10/10 thủ tục hành chính cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện[1], trong đó phân quyền 02/10 thủ tục hành chính tại Điều 7 và Điều 8; phân cấp 08/10 thủ tục hành chính từ Điều 31 đến Điều 38.
(iii) Lĩnh vực quản lý luật sư: Phân quyền 04/20 thủ tục hành chính[2] cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (từ Điều 9 đến Điều 12).
(iv) Lĩnh vực công chứng: Phân quyền 04/04 thủ tục hành chính về bổ nhiệm, miễn nhiệm, bổ nhiệm lại công chứng viên và vông nhận tương đương đối với người được đào tạo nghề công chứng ở nước ngoài (từ Điều 14 đến Điều 17).
(v) Lĩnh vực nuôi con nuôi: Phân quyền 01/04 thủ tục hành chính (xác nhận công dân Việt Nam ở trong nước đủ điều kiện nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi - Điều 23).
(vi) Lĩnh vực thừa phát lại, phân cấp 04/04 thủ tục hành chính về bổ nhiệm, miễn nhiệm, bổ nhiệm lại Thừa phát lại và công nhận tương đương đào tạo nghề Thừa phát lại ở nước ngoài (từ Điều 27 đến Điều 30).
(vii) Lĩnh vực trọng tài thương mại, hòa giải thương mại và quản lý, thanh lý tài sản (Quản tài viên) gồm có tổng số 11 thủ tục hành chính mới được Bộ Tư pháp tham mưu Chính phủ phân cấp tại Nghị định số 112/2025/NĐ-CP ngày 29/5/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định thuộc lĩnh vực bổ trợ tư pháp.
Như vậy, sau khi phân quyền, phân cấp, Bộ Tư pháp, Bộ trưởng trực tiếp giải quyết 18 thủ tục hành chính.
Đối với các thủ tục hành chính mà Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp phân quyền, phân cấp cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện, dưới góc độ quản lý nhà nước của mình, Bộ Tư pháp thấy rằng việc phân quyền, phân cấp này là hợp lý, bảo đảm tính khả thi. Trên thực tế, số lượng giải quyết các thủ tục hành chính này không nhiều (nhiều nhất là thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề luật sư thì năm 2024 cũng chỉ có 1.121 trường hợp; các thủ tục khác chỉ có khoảng vài chục đến vài trăm hồ sơ mỗi năm trên phạm vi cả nước). Mặt khác, hiện nay các thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp hầu hết đều được nộp hồ sơ tại Sở Tư pháp; các Sở Tư pháp tiếp nhận hồ sơ, xem xét đánh giá hồ sơ đủ hay không đủ điều kiện trình, sau đó, chuyển hồ sơ lên Bộ Tư pháp để Bộ, Bộ trưởng ra quyết định giải quyết các thủ tục hành chính. Như vậy, về bản chất, lâu nay địa phương cũng đã thực hiện một phần quan trọng trong quy trình giải quyết các thủ tục hành chính này; việc phân quyền, phân cấp không phải là việc hoàn toàn mới cho địa phương mà là bảo đảm địa phương thực hiện xuyên suốt các thủ tục hành chính; bảo đảm nguyên tắc “địa phương quyết định, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”.
Bên cạnh phân quyền, phân cấp triệt để việc giải quyết các thủ tục hành chính, Bộ cũng đã rà soát thực hiện phân quyền, phân cấp 10 nhiệm vụ quản lý nhà nước, cụ thể:
Về phân quyền: Có 08 nhiệm vụ, thẩm quyền từ thẩm quyền của Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp được phân quyền cho Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Bồi thường nhà nước 05 nhiệm vụ: (i) Trách nhiệm hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước (Điều 18); (ii) Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm trong việc giải quyết bồi thường, thực hiện trách nhiệm hoàn trả (Điều 19); (iii) Kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có nội dung giải quyết bồi thường (Điều 20); (iv) Kiến nghị Thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại xem xét lại quyết định hoàn trả, quyết định giảm mức hoàn trả (Điều 21); (v) Yêu cầu Thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại hủy quyết định giải quyết bồi thường (Điều 22)
- Phổ biến giáo dục pháp luật, 02 nhiệm vụ: (i) Việc công nhận báo cáo viên pháp luật, theo đó, giao Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam công nhận báo cáo viên pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý của mình; đồng thời quy định trình tự, thủ tục công nhận, miễn nhiệm báo cáo viên pháp luật trong lĩnh vực quản lý (Điều 24) và (ii) chính sách hỗ trợ xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, theo đó, để phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương, giao HĐND cấp tỉnh quy định cụ thể chính sách hỗ trợ đối với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật trong phạm vi địa phương mình (Điều 25).
- Trợ giúp pháp lý 01 nhiệm vụ, theo đó, giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý (Điều 26).
Về phân cấp: Có 02 nhiệm vụ, thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ được phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện.
- Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa: 01 nhiệm vụ, theo đó, giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh công bố công khai mạng lưới tư vấn viên pháp luật được quy định tại khoản 3 Điều 3, Điều 9 của Nghị định số 55/2019/NĐ-CP; đồng thời, giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành trình tự, thủ tục hỗ trợ chi phí tư vấn pháp luật (Điều 39).
- Trợ giúp pháp lý: 01 nhiệm vụ, theo đó, giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp phôi thẻ cộng tác viên trợ giúp pháp lý (Điều 40).
Trình tự, thủ tục và hồ sơ thực hiện các thủ tục hành chính
Khi thực hiện việc phân quyền, phân cấp từ Bộ Tư pháp xuống Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh dẫn đến việc thay đổi về trình tự, thủ tục và thẩm quyền đang được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành. Do vậy, để bảo đảm việc thực hiện thủ tục hành chính thông suốt, không bị ách tắc, dự thảo Nghị định đã quy định cụ thể trình tự, thủ tục thực hiện, thành phần hồ sơ, thời hạn giải quyết các thủ tục hành chính đối với từng loại thủ tục (tại 06 Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định) để có thể áp dụng được ngay sau khi Nghị định được ban hành. Các quy định này đảm bảo tuân thủ yêu cầu về cải cách hành chính, cắt giảm thời gian, thành phần và chi phí tuân thủ thủ tục hành chính; đối với các thủ tục hành chính yêu cầu có Phiếu Lý lịch tư pháp thì không yêu cầu người dân nộp mà quy định theo hướng cơ quan giải quyết thủ tục hành chính đề nghị cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu về lý lịch tư pháp cung cấp thông tin nhằm thực thi phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định, thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp theo Quyết định số 498/QĐ-TTg ngày 11/6/2024 của Thủ tướng Chính phủ.
Các quy định về thủ tục hành chính trong dự thảo Nghị định theo hướng:
- Đơn giản hóa các thủ tục hành chính từ thành phần hồ sơ: không yêu cầu nộp các thành phần hồ sơ nếu có thể khai thác được trên cơ sở dữ liệu dùng chung; không yêu cầu người dân nộp Phiếu lý lịch tư pháp;
- Quy định rõ ràng hơn về thời hạn giải quyết các thủ tục hành chính (từ “ngày” thành “ngày làm việc”) và rút ngắn thời gian giải quyết các thủ tục hành chính;
- Liên thông các thủ tục hành chính như khi thu hồi Giấy phép thành lập đồng thời thu hồi Giấy phép hoạt động.
- Thực hiện nguyên tắc “phi địa giới hành chính” khi thực hiện giải quyết thủ tục hành chính cho người dân; chỉ quy định việc nộp gắn với địa giới đối với những thủ tục bắt buộc để gắn với quản lý như trong luật sư, công chứng, thừa phát lại.
- Về phương thức nộp hồ sơ và nhận trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính: Nghị định quy định theo hướng cho phép người dân lựa chọn phương thức nộp và nhận kết quả (trực tiếp, trực tuyến, qua dịch vụ bưu chính); chỉ một số thủ tục hành chính yêu cầu phải nhận kết quả trực tiếp tại cơ quan giải quyết do các thủ tục hành chính này đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung thông tin vào giấy tờ gốc như Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động trong các thủ tục như: thay đổi nội dung Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh, Văn phòng đại diện của Tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam; thủ tục hợp nhất, sáp nhập công ty luật nước ngoài; thủ tục chuyển đổi chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài thành công ty luật trách nhiệm hữu hạn 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam; thủ tục chuyển đổi công ty luật nước ngoài thành công ty luật Việt Nam.
Nghị định quy định cụ thể các trường hợp và trách nhiệm của các cơ quan phải tiếp tục thực hiện đối với những nhiệm vụ đang trong quá trình giải quyết, hệ quả pháp lý của các nhiệm vụ đã thực hiện, tài liệu, hồ sơ mà trước đó Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm giải quyết; việc giải quyết các thủ tục hành chính đã thực hiện việc nộp hồ sơ trước ngày Nghị định này có hiệu lực (Điều 42) để bảo đảm không tạo khoảng trống pháp lý khi thực hiện phân quyền, phân cấp.
Ảnh: internet
[1] (i) Thành lập, đăng ký hoạt động Trung tâm trọng tài; (ii) chấm dứt hoạt động Trung tâm trọng tài; (iii) Thay đổi nội dung Giấy phép thành lập Trung tâm trọng tài, Giấy đăng ký hoạt động của Trung tâm trọng tài trong trường hợp thay đổi người địa diện theo pháp luật, đặt trụ sở; (iv) Cấp lại Giấy phép thành lập Trung tâm trọng tài, Chi nhánh, Văn phòng đại diện của Tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam; (v) Thu hồi Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động của Trung tâm trọng tài; (vi) Cấp Giấy phép thành lập Chi nhánh, Văn phòng đại diện của Tổ chức Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam; (vii) Đăng ký hoạt động Chi nhánh, thông báo việc thành lập Văn phòng đại diện của Tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam; (viii) Thay đổi nội dung Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động của Chi nhánh, Văn phòng đại diện của Tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam; (ix) Thu hồi Giấy phép thành lập của Chi nhánh, Văn phòng đại diện của Tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam; (x) chấm dứt hoạt động của Chi nhánh, Văn phòng đại diện của Tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam
[2] Gồm: Cấp, thu hồi, cấp lại Chứng chỉ hành nghề luật sư; hợp nhất, sáp nhập Công ty luật nước ngoài; chuyển đổi chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài thành công ty luật trách nhiệm hữu hạn 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam; chuyển đổi công ty luật nước ngoài thành công ty luật Việt Nam; chấm dứt hoạt động của chi nhánh, công ty luật nước ngoài.