
Luật Báo chí được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 05/4/2016, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017. Luật Báo chí và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo hành lang pháp lý để hoạt động báo chí và các hoạt động liên quan đến báo chí phát triển; quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của Nhân dân được bảo đảm và phát huy trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Tuy nhiên, sau hơn 08 năm thi hành, bên cạnh những kết quả đạt được, một số quy định của Luật Báo chí đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn của hoạt động báo chí và sự phát triển của khoa học, công nghệ, truyền thông. Cùng với đó, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về báo chí đã có nhiều thay đổi để phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế.
Dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) giảm 01 chương, 07 điều so với Luật Báo chí năm 2016
Việc xây dựng Luật Báo chí (sửa đổi) và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật là cần thiết nhằm giải quyết, khắc phục triệt để những tồn tại, vướng mắc, bất cập trong quá trình triển khai thực hiện, bảo đảm phù hợp với thực tiễn phát triển của lĩnh vực báo chí, truyền thông trong giai đoạn hiện nay với các mục tiêu: (i) Thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về báo chí; (ii) Khắc phục những hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật về báo chí hiện hành, đồng thời đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi mới trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của khoa học, công nghệ và truyền thông hiện đại hiện nay; (iii) Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, điều chỉnh đầy đủ các mối quan hệ trong lĩnh vực báo chí để phục vụ công tác quản lý nhà nước về báo chí; bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí, quyền và lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động báo chí; (iv) Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính gắn với kiểm tra, kiểm soát viêc thực thi pháp luật về báo chí để đảm bảo quản lý thống nhất từ Trung ương đến địa phương.
Hiện nay, bố cục của dự thảo Luật gồm 05 chương, 54 điều (giảm 01 chương, 07 điều so với Luật Báo chí năm 2016), cụ thể:
(i) Chương I. Quy định chung (gồm 12 điều, từ Điều 1 đến Điều 12). Chương này cơ bản kế thừa, có sửa đổi, bổ sung quy định tại Chương I của Luật Báo chí hiện hành, đồng thời, đưa 03 điều tại Chương II của Luật hiện hành về Chương I.
(ii) Chương II. Tổ chức báo chí (gồm 04 mục, 19 điều, từ Điều 13 đến Điều 31), quy định về cơ quan chủ quản báo chí (02 điều, từ Điều 13 đến Điều 14); về cơ quan báo chí (13 điều, từ Điều 15 đến Điều 27); về lãnh đạo cơ quan báo chí (02 điều, từ Điều 28 đến Điều 29); về nhà báo (02 điều, từ Điều 30 đến Điều 31). Chương này kế thừa, có sửa đổi, bổ sung quy định tại Chương III của Luật Báo chí hiện hành; đưa 01 điều tại Chương II, 02 điều tại Chương IV của Luật Báo chí hiện hành về Chương này; đồng thời, bổ sung quy định về mô hình Tổ hợp báo chí truyền thông chủ lực đa phương tiện, Tổ hợp báo chí của địa phương (Điều 15) và quy định về thu hồi giấy phép (Điều 19).
(iii) Chương III. Hoạt động báo chí (gồm 05 mục, 20 điều, từ Điều 32 đến Điều 49), quy định về hoạt động báo chí trên không gian mạng (02 điều, từ Điều 32 đến Điều 33); về thông tin trên báo chí (10 điều, từ Điều 34 đến Điều 43); về in, phát hành và cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình (04 điều, từ Điều 44 đến Điều 47); về xuất khẩu, nhập khẩu báo chí và hoạt động báo chí của nước ngoài tại Việt Nam (02 điều, từ Điều 48 đến Điều 49); về bản tin, đặc san (02 điều, từ Điều 50 đến Điều 51). Chương này cơ bản kế thừa, có sửa đổi, bổ sung quy định tại Chương IV của Luật Báo chí hiện hành; đồng thời, bổ sung Mục 1 có 02 điều (Điều 32, Điều 33) quy định về hoạt động báo chí trên không gian mạng.
(iv) Chương IV. Khen thưởng và xử lý vi phạm trong hoạt động báo chí (gồm 02 điều, từ Điều 52 đến Điều 53). Chương này cơ bản kế thừa, có sửa đổi, bổ sung quy định tại Chương V của Luật hiện hành.
(v) Chương V. Điều khoản thi hành (gồm 01 Điều, Điều 54) quy định thời điểm có hiệu lực của Luật.
Bổ sung quy định “kênh nội dung của cơ quan báo chí trên không gian mạng”
Theo Điều 3 dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) “báo chí” là sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống tự nhiên và xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định kỳ (đối với báo chí in) và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng thông qua các loại hình báo chí in, báo chí điện tử, báo chí nói, báo chí hình, kênh nội dung của cơ quan báo chí trên không gian mạng.
Kênh nội dung của cơ quan báo chí trên không gian mạng là kênh thông tin do cơ quan báo chí thiết lập trên một mạng xã hội để cung cấp, truyền đưa, thu thập, trao đổi, chia sẻ thông tin, kết nối cộng đồng người sử dụng mạng xã hội, có dấu hiệu nhận biết thống nhất khi thiết lập trên các mạng xã hội khác nhau.
Sửa đổi này để phù hợp việc bổ sung quy định hoạt động báo chí trên không gian mạng.
Bổ sung khái niệm Tổ hợp báo chí truyền thông chủ lực đa phương tiện và Tổ hợp báo chí của địa phương
Tổ hợp báo chí truyền thông chủ lực đa phương tiện trong dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) là mô hình hoạt động của cơ quan báo chí có nhiều loại hình báo chí, có các cơ quan báo chí trực thuộc, doanh nghiệp trực thuộc hoặc góp vốn tại doanh nghiệp, có vai trò nòng cốt định hướng dư luận xã hội, được có cơ chế đặc thù về tài chính, lao động, tiền lương như doanh nghiệp).
Tổ hợp báo chí của địa phương là mô hình hoạt động của cơ quan báo chí địa phương có nhiều loại hình báo chí, có các cơ quan báo chí trực thuộc, có vai trò nòng cốt định hướng dư luận xã hội tại địa phương.
Đối tượng hoạt động theo mô hình Tổ hợp báo chí truyền thông chủ lực đa phương tiện phù hợp với Quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở báo chí, phát thanh, truyền hình, thông tin điện tử, cơ sở xuất bản được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Chính phủ sẽ quy định chi tiết cơ chế đặc thù tài chính, lao động, tiền lương của Tổ hợp báo chí truyền thông chủ lực đa phương tiện; mô hình hoạt động Tổ hợp báo chí của địa phương.
Bổ sung các nguồn thu của cơ quan báo chí
Luật Báo chí năm 2016 quy định về loại hình hoạt động và nguồn thu của cơ quan báo chí: (i) Nguồn thu do cơ quan chủ quản báo chí cấp; (ii) Thu từ bán báo, bán quyền xem các sản phẩm báo chí, quảng cáo, trao đổi, mua bán bản quyền nội dung; (iii) Thu từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ của cơ quan báo chí, các đơn vị trực thuộc cơ quan báo chí; (iv) Nguồn thu từ tài trợ hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.
Ngoài các nguồn thu trên, dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) đã bổ sung các nguồn thu của cơ quan báo chí, gồm có: (i) Thu từ lợi nhuận phần vốn góp trong các doanh nghiệp; (ii) Thu từ thực hiện các nội dung cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao nhiệm vụ, đặt hàng, đấu thầu; (ii) Thu từ người có nhu cầu đăng bài nghiên cứu khoa học để có kinh phí phản biện, hoàn thiện, nâng cao chất lượng bài viết.
Quy định này nhằm tạo thêm nguồn thu cho cơ quan báo chí, phục vụ hoạt động báo chí.
Phóng viên, biên tập viên chưa được cấp thẻ nhà báo có quyền và nghĩa vụ như đối với nhà báo
Luật Báo chí 2016 chỉ quy định quyền và nghĩa vụ của nhà báo. Để được cấp thẻ nhà báo cần đảm bảo các điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định; trên thực tế, có những người làm tại cơ quan báo chí có hoạt động nghiệp vụ nhưng chưa được cấp thẻ nhà báo nhưng Luật Báo chí hiện hành chưa quy định quyền, nghĩa vụ cũng như cách thức tác nghiệp báo chí của những người này. Do đó, khoản 4 Điều 30 dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) quy định phóng viên, biên tập viên chưa được cấp thẻ nhà báo có quyền và nghĩa vụ như đối với nhà báo; khi đến cơ quan, tổ chức để hoạt động nghiệp vụ báo chí chỉ cần xuất trình giấy giới thiệu do cơ quan báo chí cấp. Giấy giới thiệu chỉ được cấp cho phóng viên, biên tập viên của cơ quan báo chí.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) bỏ quy định về kỳ hạn thẻ nhà báo. Quy định thời hạn sử dụng thẻ nhà báo là 05 năm tính từ ngày cấp thẻ và được ghi trên thẻ. Hết thời hạn sử dụng thẻ nhà báo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xét cấp đổi thẻ nhà báo.
Ảnh: internet