
1. Tổng quan về chính sách, pháp luật về trợ giúp pháp lý
Vào cuối Thế kỷ XX, cùng với những thành tựu đạt được của sự nghiệp đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, thực hiện nhất quán chủ trương của Đảng “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục…, giải quyết tốt vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người”[1], chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách được hình thành theo Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách (Quyết định số 734/TTg). Quyết định này đặt nền móng cho sự ra đời, phát triển của hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý trong cả nước và được chia thành ba giai đoạn:
1.1. Giai đoạn 1: Từ năm 1997 cho đến khi Quốc hội ban hành Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006
Ngày 14/01/1998, liên Bộ Tư pháp - Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ - Bộ Tài chính - Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư liên tịch số 52/TTLT-TP-TC-TCCP-LĐTBXH hướng dẫn thi hành Quyết định số 734/TTg. Theo đó, ở Trung ương, Cục Trợ giúp pháp lý - Bộ Tư pháp được thành lập với chức năng thực hiện quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý và thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí trong một số trường hợp; ở địa phương, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và các đối tượng chính sách, có tên gọi là Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước (trực thuộc Sở Tư pháp).
Ở giai đoạn này, do khả năng đáp ứng của ngân sách nhà nước nên Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước có chức năng cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí trong phạm vi nhóm người nghèo, nhóm đối tượng chính sách và tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng này thông qua các hình thức cụ thể, bao gồm tư vấn, đại diện, bào chữa miễn phí trong các vụ việc liên quan đến pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự; dân sự - hôn nhân gia đình và tố tụng; hành chính và khiếu nại, tố cáo; lao động, việc làm; đất đai, nhà ở và các lĩnh vực pháp luật khác liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa vụ của công dân.Việc đại diện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong vụ án dân sự; bào chữa trong vụ án hình sự trong các trường hợp người nghèo, đối tượng chính sách phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do vô ý sẽ do các luật sư là cộng tác viên trợ giúp pháp lý đảm nhận.
Với phương thức trợ giúp pháp lý phong phú và đa dạng (tư vấn trực tiếp, bằng văn bản, bằng thư tín, bằng điện thoại; tổ chức tư vấn lưu động ở các vùng xa trung tâm; mời cộng tác viên tư vấn, bào chữa hoặc đại diện và các phương thức trợ giúp pháp lý khác như tham gia hòa giải, giúp đỡ thủ tục hành chính...) nên các Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước đã thực hiện trợ giúp pháp lý với hơn 980.000 vụ việc cho hơn 1 triệu lượt người[2].
Thực tiễn đã chứng minh ngoài việc nâng cao nhận thức pháp luật, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người nghèo, đối tượng chính sách; tạo sức lan tỏa của pháp luật trong đời sống xã hội, giải tỏa nhiều “điểm nóng” khiếu kiện ở cơ sở; hiệu quả tích cực do chính sách trợ giúp pháp lý mang lại còn khẳng định ý nghĩa chính trị - xã hội - nhân văn của chính sách, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước đối với người nghèo, người có công với cách mạng và một số nhóm yếu thế trong xã hội.
1.2. Giai đoạn 2: Từ năm 2006 đến năm 2017
Sau gần 10 năm thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý theo Quyết định số 734/TTg, trước yêu cầu thực tiễn và yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách hành chính, cải cách tư pháp và chủ động hội nhập quốc tế theo chủ trương của Bộ Chính trị (Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020), Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, đánh dấu bước phát triển mới trong hoàn thiện chính sách, pháp luật về trợ giúp pháp lý.
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 đã khẳng định:
Thứ nhất, quyền yêu cầu trợ giúp pháp lý là quyền của người có công với cách mạng, của người nghèo và một số nhóm yếu thế trong xã hội, được ghi nhận trong Luật. Nhà nước có cơ chế, chính sách để bảo đảm quyền yêu cầu trợ giúp pháp lý được thực hiện trên thực tế, trong cuộc sống của người nghèo.
Thứ hai, trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước, Nhà nước có chính sách để bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội; đồng thời, Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích, ghi nhận và tôn vinh các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp cho hoạt động trợ giúp pháp lý; khẳng định bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Thứ ba, trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người nghèo, người có công với cách mạng và những người thuộc diện yếu thế trong xã hội, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật.
Để triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, Bộ Tư pháp đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/ 01/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý; đồng thời ban hành các thông tư theo thẩm quyền và cùng các Bộ, ngành có liên quan ban hành các thông tư liên tịch bảo đảm Luật Trợ giúp pháp lý sớm đi vào cuộc sống.
Với cơ sở pháp lý đầy đủ, cùng với phương châm chủ động đưa trợ giúp pháp lý đến với người dân ở cơ sở bằng nhiều phương thức trợ giúp pháp lý phong phú và đa dạng (trợ giúp pháp lý lưu động về xã, thôn, bản; phát huy vai trò trực tiếp của cộng tác viên trợ giúp pháp lý là các già làng, trưởng thôn, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng dân cư....), sau 09 năm thi hành Luật Trợ giúp pháp lý, hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý đã được hình thành trên toàn quốc với 63 Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước trực thuộc Sở Tư pháp, 202 Chi nhánh của Trung tâm (Chi nhánh) ở cấp huyện và liên huyện, 364 tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý. Đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý được củng cố với 595 trợ giúp viên pháp lý, 1.239 cộng tác viên trợ giúp pháp lý là luật sư, 10.632 cộng tác viên khác tham gia trợ giúp pháp lý[3].
![]() |
Biểu đồ 1: Số lượng người thực hiện trợ giúp pháp lý |
Về kết quả hoạt động, các tổ chức trợ giúp pháp lý đã giải quyết 1.055.294 vụ việc (trong đó có 61.120 vụ việc tham gia tố tụng, 982.442 vụ việc tư vấn pháp luật (tư vấn pháp luật thông qua các đợt trợ giúp pháp lý lưu động là 499.495 vụ), 11.732 vụ việc khác; đã có 1.130.609 lượt người được trợ giúp pháp lý (trong đó có 303.251 người nghèo, 147.463 người có công với cách mạng, 17.162 người già cô đơn không nơi nương tựa, 43.353 trẻ em, 17.729 người khuyết tật, 636 người nhiễm HIV, 284.088 người dân tộc thiểu số, 1.447 nạn nhân của tội phạm mua bán người và 315.480 người thuộc diện được trợ giúp pháp lý khác)[4].
![]() |
Biểu đồ 2. Số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý giai đoạn 2006 - 2017 |
1.3. Giai đoạn 3: Từ năm 2018 đến năm 2024
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, trước yêu cầu phát triển của đất nước, yêu cầu triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, nhiều đạo luật quan trọng được Quốc hội ban hành, nhiều chính sách cải cách được thông qua, trong đó có việc tăng cường cải cách pháp luật, cải cách tư pháp theo định hướng của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và yêu cầu chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; bên cạnh đó, hoạt động trợ giúp pháp lý đã bộc lộ những hạn chế, bất cập như[5]: (i) Diện người được trợ giúp pháp lý còn chưa đầy đủ, quy định về đối tượng được trợ giúp pháp lý chưa bảo đảm tính hợp lý, còn tản mạn ở nhiều văn bản khác nhau do có sự thay đổi, bổ sung trong các chính sách an sinh xã hội; (ii) Chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý chưa đáp ứng yêu cầu; (iii) Hoạt động trợ giúp pháp lý còn chống chéo với các hoạt động khác, gây lãng phí về nguồn lực; (iv) Tổ chức bộ máy trợ giúp pháp lý còn cồng kềnh, hiệu quả xã hội hóa còn hạn chế; (v) Quy trình, thủ tục tiếp nhận và thực hiện trợ giúp pháp lý chưa tạo điều kiện thuận lợi cho người được trợ giúp pháp lý, mức độ ứng dụng ứng dụng công nghệ thông tin còn rất hạn chế.
Vì vậy, tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 (sửa đổi), có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Sau 08 năm thi hành đã đạt được một số kết quả nhất định:
Thứ nhất, thể chế về trợ giúp pháp lý tiếp tục được hoàn thiện. Quyền trợ giúp pháp lý và cơ chế bảo đảm không những được khẳng định trong Luật Trợ giúp pháp lý mà còn được khẳng định ở nhiều đạo luật quan trọng (Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 75 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Điều 19 Luật Tố tụng hành chính, Điều 15 Luật Đất đai năm 2024...). Bên cạnh đó, chính sách trợ giúp pháp lý cũng được hoàn thiện trong nhiều Chương trình mục tiêu quốc gia (về giảm nghèo bền vững[6], xây dựng nông thôn mới[7], phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025[8]).
Thứ hai, năng lực bộ máy và năng lực đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý đã có bước chuyển tích cực. Tính đến 31/12/2024, toàn quốc có 63 Trung tâm Trợ giúp pháp lý (với 97 Chi nhánh); 1.440 viên chức, người lao động, trong đó có 712 trợ giúp viên pháp lý; 197 tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; 706 luật sư ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý.
Thứ ba, công tác phối hợp trợ giúp pháp lý trong tố tụng được tăng cường, bảo đảm chặt chẽ và hiệu quả.
Triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và quy định về trợ giúp pháp lý trong Bộ luật Tố tụng hình sự; Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật Tố tụng hành chính, ngày 29/6/2018, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng; Thông tư liên tịch số 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành tổ chức phiên tòa trực tuyến theo Nghị quyết số 33/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội khóa XV. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao ban hành Chương trình phối hợp số 1603/CTPH-BTP-TANDTC ngày 19/5/2022 về người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án và phối hợp với Bộ Công an ký Chương trình phối hợp số 5789/CTPH-BTP-BCA ngày 27/11/2023 về trực trợ giúp pháp lý trong điều tra hình sự, ký với Liên đoàn luật sư Việt Nam Quy chế số 4617/QCPH/BTP-LĐLS ngày 28/12/2016 về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư.
Thứ tư, chính sách trợ giúp pháp lý đã được đưa vào nhiều chương trình mục tiêu quốc gia và được triển khai đồng bộ cùng các chính sách về an sinh xã hội.
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021- 2025 đã xác định nhiệm vụ truyền thông về giảm nghèo đa chiều, trong đó có truyền thông về trợ giúp pháp lý với cách thức biên soạn, in ấn, phát hành các tài liệu về trợ giúp pháp lý, khảo sát về trợ giúp pháp lý.....; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021- 2025 tập trung vào việc nâng cao năng lực, kiến thức về trợ giúp pháp lý cho những người có uy tín trong cộng đồng và đội ngũ cán bộ ở sơ sở (công an xã, cán bộ tư pháp - hộ tịch...), tổ chức, đoàn thể ở cấp xã để giải thích quyền được trợ giúp pháp lý của người dân, đồng thời tăng cường thông tin, truyền thông rộng rãi về trợ giúp pháp lý để nâng cao nhận thức của người dân về trợ giúp pháp lý; tiếp đó là Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025 với mong muốn đồng bào thiểu số kịp thời tiếp cận và thụ hưởng trợ giúp pháp lý thông qua các hoạt động cụ thể (tập huấn cho đội ngũ già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng, người thực hiện trợ giúp pháp lý và cán bộ có liên quan); Chương trình phòng, chống mua bán người (theo Quyết định số 193/QĐ-TTg ngày 09/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ) giao Bộ Tư pháp hướng dẫn các Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước và các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bị mua bán theo quy định của pháp luật.
Đặc biệt chính sách trợ giúp pháp lý cũng được đưa vào Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hoá giai đoạn 2025 - 2035 (theo Nghị quyết số 162/2024/QH15 ngày 27/11/2024 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hoá giai đoạn 2025 - 2035) và Nghị quyết số 163/2024/QH15 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy đến năm 2030 đề ra mục tiêu “Phấn đấu trợ giúp pháp lý cho 100% số người vi phạm pháp luật liên quan đến ma túy, người sử dụng trái phép chất ma túy, người nghiện ma túy và người sau cai nghiện ma túy thuộc diện trợ giúp pháp lý khi có yêu cầu”...
Thứ năm, hoạt động trợ giúp pháp lý nhận được sự hợp tác của nhiều quốc gia và sự ủng hộ của nhiều tổ chức quốc tế, góp phần tích cực vào việc hoàn thiện tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về trợ giúp pháp lý, thiết thực phục vụ lợi ích của người được trợ giúp pháp lý.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, đến nay, Việt Nam đã ký kết 16 hiệp định tương trợ tư pháp có nội dung liên quan đến trợ giúp pháp lý (Trung Quốc, Pháp, Ucraina, Mông Cổ, Angeri, Campuchia, Ba Lan, Bungari, Cadacxtan, Cuba, Hungari, Nga, Tiệp Khắc, Triều Tiên, Belarut, Đài Loan). Trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại, tinh thần chung xuyên suốt của các hiệp định là công dân của mỗi bên có quyền được trợ giúp pháp lý miễn phí trên lãnh thổ của “bên kia” theo cùng những điều kiện và mức độ như công dân của “bên kia”; giấy chứng nhận về tình trạng thu nhập thấp sẽ do cơ quan có thẩm quyền của nước mà người đó mang quốc tịch cấp, nếu người yêu cầu thường trú hoặc tạm trú trên lãnh thổ của một trong các bên.
Thực hiện các hiệp định trên, trong những năm qua, các tổ chức trợ giúp pháp lý ở Việt Nam đã triển khai nghiêm túc việc trợ giúp pháp lý cho công dân của các nước đang thường trú ở Việt Nam khi họ có vướng mắc pháp luật thuộc phạm vi, lĩnh vực trợ giúp pháp lý và có yêu cầu, đặc biệt là tại 10 địa phương giáp biên giới với Lào (Điện Biên, Sơn La, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Kon Tum), các Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước đã thực hiện trợ giúp pháp lý có hiệu quả cho công dân của các nước bạn.
Đối với người Việt Nam ra nước ngoài sinh sống, học tập, lao động, hiện nay chưa có số liệu thống kê chính thức nhưng qua nắm bắt của Cục Phổ biến giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý, ở một số quốc gia, vùng lãnh thổ, chính phủ nước sở tại giành cho người Việt Nam đang lưu trú tại đó được hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí, điển hình như Nhật Bản, Đài Loan.
Trong quá trình hình thành và phát triển, hoạt động trợ giúp pháp lý đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều tổ chức quốc tế như: Cơ quan Hợp tác Phát triển Quốc tế Thụy Điển (Sida), Tổ chức Oxfam Novib (Hà Lan), Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA)... Từ những hỗ trợ tài chính và sự chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về trợ giúp pháp lý kết hợp với nguồn lực cơ bản trong nước đã đưa trợ giúp pháp lý ở Việt Nam từng bước phát triển.
Thứ sáu, kết quả trợ giúp pháp lý đã có sự chuyển dịch theo hướng tập trung vào vụ việc tham gia tố tụng.
Về kết quả thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý: Từ 01/01/2018 - 31/12/2024 (kể từ khi Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 có hiệu lực) đã thực hiện 234.569 vụ việc trợ giúp pháp lý, trong đó có 93.266 vụ việc tư vấn pháp luật (chiếm tỷ lệ 39,8%); 139.232 vụ việc tham gia tố tụng (59,4%); 2.071 vụ việc đại diện ngoài tố tụng (0,9%)[9].
![]() |
Biểu đồ 3. Số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý 2018 - 2024 |
Thứ bảy, việc thu hút đội ngũ luật sư, các công ty luật tham gia vào hoạt động trợ giúp pháp lý từng bước được khẳng định.
Hiện nay, có 197 tổ chức hành nghề luật sư đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý, ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với Sở Tư pháp; 706 luật sư, 22 cán bộ pháp luật nghỉ hưu ký kết hợp đồng trợ giúp pháp lý với Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước để làm cộng tác viên trợ giúp pháp lý. Trong giai đoạn 2018 - 2024, các tổ chức, cá nhân tham gia trợ giúp pháp lý đã thực hiện được 45.540 vụ việc trợ giúp pháp lý chiếm (19,4% tổng số vụ việc trợ giúp pháp lý trong giai đoạn này)[10].
![]() |
Biểu đồ 4. Tỷ lệ vụ việc do tổ chức, cá nhân tham gia trợ giúp pháp lý thực hiện |
Kết quả trên đã ghi nhận những thành tựu của trợ giúp pháp lý sau gần 08 năm thi hành Luật Trợ giúp pháp lý, điều đó thể hiện:
- Số lượng văn bản quy phạm pháp luật được ban hành đầy đủ, kịp thời; chính sách trợ giúp pháp lý đã được nâng lên tầm cao mới và được thực hiện trong nhiều Chương trình mục tiêu quốc gia, tạo thêm các cách thức để người dân tiếp cận và yêu cầu trợ giúp pháp lý;
- Hoạt động của đội ngũ trợ giúp viên pháp lý đã chuyên nghiệp hơn; phẩm chất chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức thường xuyên được trau dồi, năng lực chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp ngày càng tinh thông;
- Công tác truyền thông về trợ giúp pháp lý được thực hiện bằng nhiều cách thức đa dạng, phong phú, từng bước đưa chính sách, pháp luật về trợ giúp pháp lý thẩm thấu trong Nhân dân;
- Hoạt động phối hợp trợ giúp pháp lý trong tố tụng được đẩy mạnh; phiên tòa trực tuyến có Trợ giúp viên pháp lý tham gia đã thành công trên thực tế;
- Số lượng và chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý được kiểm soát chặt chẽ, từng bước bảo đảm sự hài lòng của người dân đối với chất lượng dịch vụ pháp lý do các tổ chức trợ giúp pháp lý thực hiện; góp phần giúp người nghèo, người có công với cách mạng và các nhóm người yếu thế tiếp cận công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Qua ba giai đoạn phát triển với những thành tựu đạt được, có thể khẳng định trợ giúp pháp lý không chỉ là chính sách, pháp luật mang bản chất chính trị, xã hội và giá trị nhân văn sâu sắc luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm mà còn là công cụ quan trọng bảo đảm công bằng, bình đẳng trước pháp luật cho những người thuộc diện trợ giúp pháp lý, góp phần phòng ngừa và giảm thiểu tranh chấp và vi phạm pháp luật trong đời sống xã hội. Gần 30 năm triển khai chính sách, pháp luật về trợ giúp pháp lý, được sự quan tâm chỉ đạo của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, hệ thống trợ giúp pháp lý đã thực hiện hơn 2,3 triệu vụ việc trợ giúp pháp lý thông qua các hình thức trợ giúp pháp lý (như tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng); chất lượng dịch vụ pháp lý ngày càng được nâng lên, góp phần tích cực vào việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng pháp luật của người được trợ giúp pháp lý; góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội và ổn định an ninh trật tự ở nhiều vùng miền trong cả nước.
![]() |
Biểu đồ 5. kết quả vụ việc trợ giúp pháp lý qua ba giai đoạn |
2. Định hướng hoàn thiện chính sách, pháp luật về trợ giúp pháp lý
Ngày 09/11/2022, Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã thông qua Nghị quyết số 27-NQ/TW về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, theo đó lĩnh vực trợ giúp pháp lý có 02 nhiệm vụ cụ thể: (i) Xây dựng mạng lưới, nâng cao năng lực của hệ thống trợ giúp pháp lý để người dân dễ tiếp cận pháp luật; (ii) Nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp và chất lượng trợ giúp pháp lý, nhất là trong hoạt động tố tụng tư pháp; (iii) Hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống trợ giúp pháp lý; mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của đất nước. Triển khai các nhiệm vụ trên, Quốc hội đã thông qua 02 đạo luật quan trọng: Luật Tư pháp người chưa thành niên (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2026) quy định những người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng, người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng, phạm nhân có quyền được trợ giúp pháp lý miễn phí và Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025), nạn nhân của hành vi mua bán người, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân và người dưới 18 tuổi đi cùng nạn nhân có quyền được trợ giúp pháp lý miễn phí. Như vậy, chủ trương “mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của đất nước” mà Đảng đề ra đang từng bước được thể chế hóa thành Luật.
Tiếp đó, tại buổi làm việc với Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ đạo “Phát huy vai trò của trợ giúp pháp lý trong thực hiện các chính sách an sinh xã hội”[11]. Vì vậy, trong hai Chương trình mục tiêu quốc gia mới được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư là Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống ma túy và Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển văn hóa, cần thiết kế rõ, đầy đủ và bảo đảm chất lượng của chính sách trợ giúp pháp lý khi triển khai các Chương trình này.
Bước vào kỷ nguyên mới, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều quyết sách quan trọng, trong đó có các chủ trương, chính sách phát triển trợ giúp pháp lý: Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Đặc biệt là các Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật và Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân đã xác định: “Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hệ thống dịch vụ pháp lý, hỗ trợ pháp lý, trợ giúp pháp lý, để người dân và doanh nghiệp dễ tiếp cận pháp luật, quản trị rủi ro pháp lý; ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số đồng bộ trong phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý”; “Cung cấp miễn phí các nền tảng số, dịch vụ tư vấn pháp lý… cho doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh”.
Nghị quyết số 66-NQ/TW xác định mục tiêu: “Năm 2025, cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ những “điểm nghẽn” do quy định pháp luật”, trong đó có pháp Luật Trợ giúp pháp lý. “Năm 2027, hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản pháp luật bảo đảm cơ sở pháp lý đồng bộ cho hoạt động của bộ máy nhà nước theo mô hình chính quyền 3 cấp”.
Để sớm đưa các Nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống, các cơ quan có thẩm quyền cần khẩn trương thể chế hóa các quan điểm, chủ trương và nhiệm vụ, giải pháp về trợ giúp pháp lý, cụ thể là:
2.1. Tiếp tục thực hiện tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống trợ giúp pháp lý, mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của đất nước theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII
Một là, tiếp tục thực hiện tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống trợ giúp pháp lý.
Cùng với sự phát triển của trợ giúp pháp lý, việc đưa các thành tựu của công nghệ thông tin vào hoạt động trợ giúp pháp lý được đặt ra tại khoản 3 Điều 39 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017: “Hồ sơ điện tử của từng vụ việc trợ giúp pháp lý được số hóa, cập nhật vào hệ thống quản lý vụ việc trợ giúp pháp lý và lưu trữ tại cơ sở dữ liệu trợ giúp pháp lý”. Quy định này đã đặt nền tảng pháp lý ban đầu để xây dựng, vận hành, khai thác cơ sở dữ liệu trợ giúp pháp lý với tư cách là một cơ sở dữ liệu chuyên ngành. Sau nhiều năm nỗ lực, cơ sở dữ liệu trợ giúp pháp lý đã sơ khai hình thành và đưa vào khai thác, sử dụng. Với cấu trúc gồm các Phần mềm phục vụ công tác quản lý nhân sự (dữ liệu về tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý), Phần mềm lưu trữ vụ việc trợ giúp pháp lý đã hoàn thành (gồm các trường thông tin về nhân thân người được trợ giúp pháp lý, nội dung vụ việc trợ giúp pháp lý, kết quả vụ việc trợ giúp pháp lý...) và Phần mềm thống kê, báo cáo (bao gồm số liệu thống kê về số người được trợ giúp pháp lý, diện người được trợ giúp pháp lý, số vụ việc đã được trợ giúp pháp lý....) phục vụ công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý. Mặc dù cơ sở dữ liệu trợ giúp pháp lý đã được kết nối vào cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và quá trình vận hành được thường xuyên, liên tục và bước đầu được khai thác để lấy số liệu thống kê, trích xuất một số thông tin về nhân thân, hỗ trợ người người được trợ giúp pháp lý làm thủ tục yêu cầu trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, do cấu trúc cơ sở dữ liệu chưa đáp ứng yêu cầu quản lý trợ giúp pháp lý và chất lượng dữ liệu còn thấp nên hiệu quả mang lại từ cơ sở dữ liệu trợ giúp pháp lý còn rất hạn chế so với mục tiêu, yêu cầu của chuyển đổi số.
Chương trình “Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” theo Quyết định số 749/QĐ-TTg đã đề ra một số mục tiêu cơ bản đến năm 2025 cho tất cả các lĩnh vực, trong đó: (i) 80% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết bị di động; (ii) 90% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 80% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 60% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (trừ hồ sơ công việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước); (iii) 50% hoạt động kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ quan quản lý.
Tiếp đó, Đề án 06 ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ cũng đặt ra mục tiêu hướng tới phục vụ trực tiếp người dân trong Giai đoạn 2023 - 2025: (i) 100% thủ tục hành chính đủ điều kiện theo quy định của pháp luật được cung cấp dưới hình thức dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 và được định danh, xác thực điện tử hoặc xác thực, chia sẻ dữ liệu dân cư; (ii) 100% người dân, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 được định danh và xác thực điện tử thông suốt, hợp nhất trên tất các các hệ thống thông tin của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương; (iii) 100% người dân khi thực hiện thủ tục hành chính tại Bộ phận một cửa các cấp được định danh, xác thực điện tử trên hệ thống định danh và xác thực điện tử của Bộ Công an đã kết nối, tích hợp với Cổng Dịch vụ công quốc gia; không phải cung cấp lại các thông tin, giấy tờ về dân cư đã có trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; (iv) 100% kết quả giải quyết thủ tục hành chính của cá nhân được lưu trữ điện tử với số định danh cá nhân là một thông tin bắt buộc phục vụ cho kết nối, chia sẻ, tái sử dụng; (v) Kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với cơ sở dữ liệu trợ giúp pháp lý.
Đặc biệt mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 71/NQ-CP ngày 01/4/2025 sửa đổi, bổ sung cập nhật Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia cũng đặt ra nhiều mục tiêu cụ thể: (i) Tỷ lệ cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình trên tổng số thủ tục hành chính có đủ điều kiện đạt 90%; (ii) Tỷ lệ xử lý văn bản, hồ sơ công việc toàn trình trên môi trường điện tử của các cơ quan hành chính nhà nước đạt 100%; (iii) Tỷ lệ nhiệm vụ được theo dõi, quản lý, giám sát của các cơ quan hành chính thực hiện trên môi trường điện tử đạt 100%.
Với nhiều chương trình và mục tiêu quan trọng như trên, đến năm 2025, mặc dù đã đến năm cuối của giai đoạn trong chương trình tổng thể nhưng có thể thấy, mức độ ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động trợ giúp pháp lý còn rất nhỏ bé (chưa thực hiện trợ giúp pháp lý trên môi trường mạng ở mức độ toàn trình; thủ tục hành chính phát sinh trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý vẫn thực hiện theo cách thức truyền thống; chưa có quy trình để thực hiện một số hoạt động quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý trên môi trường mạng...) đòi hỏi phải có các giải pháp chỉ đạo quyết liệt để người được trợ giúp pháp lý thực sự được thụ hưởng những tiện ích và giá trị của chính phủ điện tử, chính phủ số.
Sau gần hai năm triển khai Quyết định số 1690/QĐ-TTg ngày 26/12/2023 của Thủ tướng Chính phủ[12], mô hình Tổ công nghệ số cộng đồng đang phát huy vai trò tích cực trong việc truyền tải đến người dân cách thức sử dụng dịch vụ công trực tuyến; thanh toán trực tuyến không dùng tiền mặt; mua bán trên các sàn thương mại điện tử; sử dụng nền tảng số Việt Nam; kỹ năng khai thác internet đảm bảo an toàn thông tin cơ bản. Đây là một kênh quan trọng để giúp người được trợ giúp pháp lý có khả năng sử dụng dịch vụ công trực tuyến để yêu cầu trợ giúp pháp lý một cách hiệu quả.
Hiện nay, Bộ Tư pháp đang tiến hành Dự án đầu tư công để xây dựng và vận hành hệ thống thông tin về trợ giúp pháp lý. Với cơ sở pháp lý đầy đủ (Luật Dữ liệu năm 2024, Luật Giao dịch điện tử năm 2024...), 80% người dân đã được cấp định danh điện tử mức độ 2 (VNeID) và với điều kiện hạ tầng công nghệ thông tin hiện nay, hoàn toàn có thể khẩn trương hoàn thành và đưa vào sử dụng hệ thống thông tin trợ giúp pháp lý với cấu trúc đáp ứng đầy đủ các yêu cầu luật định, đồng thời phải đáp ứng được: (i) Bảo đảm tất cả các thủ tục hành chính trong hoạt động trợ giúp pháp lý được tích hợp và thực hiện trên môi trường mạng ở mức độ trực tuyến toàn trình; (ii) Các hoạt động tư vấn pháp luật cơ bản diễn ra trên môi trường mạng, bảo đảm minh bạch, giúp cơ quan quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý có thể kiểm soát được quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý và kiểm soát chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý; (iii) Xây dựng cơ sở dữ liệu trợ giúp pháp lý tích hợp đủ thông tin về người được trợ giúp pháp lý khi kết nối với các cơ sở dữ liệu chuyên ngành về người nghèo, người có công, người khuyết tật...., trên cơ sở đó, tích hợp lên ứng dụng VNeID, bảo đảm để các tổ chức trợ giúp pháp lý thường xuyên nắm bắt được sự biến động về số lượng người được trợ giúp pháp lý và kịp thời có được thông tin, mong muốn của họ khi phát sinh vướng mắc về pháp luật và cần phải được trợ giúp pháp lý, đồng thời, tích hợp đầy đủ vụ việc trợ giúp pháp lý kể từ khi thụ lý đến khi vụ việc được hoàn thành, bảo đảm đáp ứng yêu cầu “đúng, đủ, sạch, sống” và bảo đảm thực hiện tốt chủ trương của Đảng: “Nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến, dịch vụ số cho người dân và doanh nghiệp, hướng tới cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình, cá nhân hoá và dựa trên dữ liệu; tăng cường giám sát, đánh giá và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong phục vụ Nhân dân”[13].
Thứ hai, mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của đất nước.
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế liên tục của đất nước, từ khi xây dựng luật, vấn đề mở rộng diện người được trợ giúp pháp lý đã được đặt ra và được quy định cụ thể trong Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 và mở rộng tiếp tại Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định 07 nhóm đối tượng được trợ giúp pháp lý (người có công với cách mạng; người thuộc hộ nghèo; trẻ em... ; những người thuộc diện: cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; người nhiễm chất độc da cam; người cao tuổi; người khuyết tật; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người; người nhiễm HIV - nhưng những nhóm người này phải có khó khăn về tài chính.
Và gần đây, với sự ra đời của Luật Tư pháp người chưa thành niên và Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) đã có thêm hai nhóm người được hưởng trợ giúp pháp lý: (i) Những người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng, người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng, phạm nhân; (ii) Nạn nhân của hành vi mua bán người, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân và người dưới 18 tuổi đi cùng nạn nhân. Những quy định này có nhiều điểm tiến bộ khi sử dụng duy nhất một tiêu chí để xác định diện người được trợ giúp pháp lý.
Tuy nhiên, với quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 về diện người được trợ giúp pháp lý cũng đã bộc lộ nhiều điểm không phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng dành cho các nhóm người yếu thế, thiếu đồng bộ với các chính sách, pháp luật khác có liên quan, điều đó thể hiện rõ nhất ở nhóm người khuyết tật: Luật người khuyết tật năm 2010 quy định “Người khuyết tật được bảo đảm thực hiện các quyền sau đây: ...d) Được chăm sóc sức khỏe, ....trợ giúp pháp lý... và dịch vụ khác phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật”. Theo Nghị định 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 Quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý thì “điều kiện khó khăn về tài chính của người được trợ giúp pháp lý quy định tại khoản 7 Điều 7 của Luật Trợ giúp pháp lý là người thuộc hộ cận nghèo hoặc là người đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng theo quy định của pháp luật”; trong khi người thuộc hộ cận nghèo thì mặc nhiên được trợ giúp pháp lý. Quy định như vậy vô hình chung tạo thành sự “luẩn quẩn”, người khuyết tật phải có hai điều kiện (vừa là người khuyết tật, vừa có khó khăn về tài chính) thì mới được trợ giúp pháp lý, điều này không phù hợp với Luật Khuyết tật - đó là về mặt nội dung; về mặt thủ tục hành chính khi yêu cầu trợ giúp pháp lý thì họ phải đồng thời xuất trình 02 loại giấy tờ chứng minh là hộ nghèo và là người khuyết tật - rườm rà, khó cho người yêu cầu trợ giúp pháp lý. Quy định như vậy không những đã tước bỏ quyền được trợ giúp pháp lý của họ mà còn làm mất đi giá trị nhân văn, nhân đạo - giá trị cốt lõi của chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước giành cho người khuyết tật.
2.2. Mở rộng các lĩnh vực pháp luật thuộc trợ giúp pháp lý, bảo đảm trợ giúp pháp lý cho nhu cầu trợ giúp pháp lý của người dân trên tất cả các lĩnh vực liên quan mật thiết quyền và nghĩa vụ công dân, đặc biệt là kinh doanh, thương mại
Nghị quyết 68-NQ/TW đã xác định “Cung cấp miễn phí các nền tảng số, dịch vụ tư vấn pháp lý … cho doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh”; và trong bài viết “Động lực mới cho phát triển kinh tế” của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm cũng chỉ đạo “Xây dựng trung tâm tư vấn pháp lý miễn phí hoặc trợ giá cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các địa phương”[14]. Điều này thể hiện những quan điểm mới của Đảng trong việc tập trung mọi nguồn lực để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển, trong đó có cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý miễn phí cho cả 04 chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh: Doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ, hộ gia đình và cá nhân kinh doanh. Như vậy, đến thời điểm hiện nay, ngoài nhóm người được trợ giúp pháp lý - được cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí theo Luật Trợ giúp pháp lý và một số Luật khác có liên quan thì đã có thêm một nhóm 04 chủ thể trên được Nhà nước trợ giúp về pháp lý trong kinh doanh nhưng ở phạm vi hẹp hơn, đó là chỉ tư vấn pháp luật miễn phí mà không bao gồm các hình thức tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp hoặc đại diện ngoài tố tụng.
Đối với doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ, hộ gia đình, quá trình thể chế hóa các chủ trương của Đảng sẽ được giải quyết theo việc sửa đổi, bổ sung Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2017, qua đó sẽ hình thành Trung tâm Tư vấn pháp luật miễn phí giành cho nhóm đối tượng này. Đối với cá nhân kinh doanh nhưng họ thuộc diện người được trợ giúp pháp lý, thì Nhà nước phải cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí hoặc tất cả các loại dịch vụ pháp lý miễn phí (tham gia tố tụng hoặc đại diện ngoài tố tụng) tùy theo khả năng bảo đảm từ ngân sách nhà nước.
Sau gần 30 năm triển khai chính sách trợ giúp pháp lý, lĩnh vực kinh doanh và thương mại luôn là “vùng cấm” đối với hoạt động trợ giúp pháp lý. Ngày nay, đội ngũ trợ giúp viên pháp lý đã không ngừng phát triển, với 712 trợ giúp viên pháp lý, được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp tương đồng với luật sư, có khả năng cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí trong mọi lĩnh vực pháp luật liên quan mật thiết đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, hoạt động của họ bị bó hẹp, không được trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực kinh doanh và thương mại. Ở một góc độ nào đó thì sự hạn chế, bó buộc này cũng gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước khi không sử dụng nguồn nhân lực sẵn có, trong khi có rất nhiều người thuộc diện hộ nghèo, vay vốn để kinh doanh, làm ăn với mục đích thoát nghèo nhưng chưa có hành lang pháp lý an toàn, phòng chống, ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra.
Vì vậy, chủ trương của Đảng về cung cấp miễn phí dịch vụ tư vấn pháp luật cho cá nhân kinh doanh là “điểm bứt phá” giúp người nghèo phấn đấu vươn lên thoát nghèo, góp phần hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế với hai con số. Do vậy, cần phải khẩn trương thể chế hóa quan điểm này để nhóm cá nhân kinh doanh là người thuộc diện được trợ giúp pháp lý, nhất là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn sẽ được trợ giúp pháp lý đầy đủ khi có yêu cầu phát sinh trong tất cả các lĩnh vực pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ công dân, đặc biệt là lĩnh vực kinh doanh và thương mại. Bên cạnh đó cũng cần loại trừ các vấn đề thuộc bí mật nhà nước, an ninh quốc gia.
2.3. Tiếp tục hoàn thiện chính sách trợ giúp pháp lý trong các Chương trình mục tiêu quốc gia, bảo đảm người dân được thụ hưởng đầy đủ trợ giúp pháp lý
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, chính sách trợ giúp pháp lý được đề ra trong nhiều Chương trình mục tiêu quốc gia với các cung bậc mục tiêu khác nhau. Năm 2025 là năm cuối của 03 chương trình mục tiêu quốc gia: Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021- 2025; xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021- 2025; phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025.
Từ quá trình tham mưu xây dựng chính sách cho đến việc tổ chức thực hiện trên thực tế, có thể thấy rằng, mục tiêu, đối tượng thụ hưởng của chính sách được xác định rõ ràng; đồng thời, điểm chung của chính sách trợ giúp pháp lý trong các Chương trình trên là thông qua việc bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng để hình thành “điểm tựa” hay “cánh tay nối dài” của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước để đưa chính sách, pháp luật về trợ giúp pháp lý tới người dân. Bên cạnh đó là việc thực hiện truyền thông bằng các cách thức đa dạng (báo chí, truyền thanh, truyền hình, tờ rơi, tờ gấp, tài liệu pháp luật....), qua đó tạo sự hiểu biết và từng bước nâng cao nhận thức của người dân về trợ giúp pháp lý và giúp họ thực hiện quyền trợ giúp pháp lý khi có vướng mắc pháp luật.
Tuy nhiên, một số chương trình cũng chưa xác định các chỉ tiêu được lượng hóa cụ thể; hơn nữa một số hoạt động chưa thực sự phù hợp và khó khả thi, ví dụ hoạt động “Tập huấn về kỹ năng thực hiện trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực dân sự, hình sự, hành chính cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi”[15] khi họ không phải là người thực hiện trợ giúp pháp lý hơn nữa họ là người chưa có kiến thức pháp luật cơ bản thì tập huấn kỹ năng là điều thực sự không cần thiết; hoặc in ấn, phát hành tờ rơi, tờ gấp trợ giúp pháp lý cũng không còn phù hợp cho tất cả các nhóm khi đã có các cách thức truyền thông khác mà người dân dễ thích ứng hơn như qua internet, zalo, tiktok...
Vì vậy, khi xây dựng chính sách trợ giúp pháp lý trong các Chương trình trên ở giai đoạn 2026 - 2030 cũng như Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hoá giai đoạn 2025 - 2035, cần xác định rõ mục tiêu tương tự như Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy đến năm 2030: Phấn đấu trợ giúp pháp lý cho 100% số người được trợ giúp pháp lý thuộc diện thụ hưởng chính sách phải được trợ giúp pháp lý khi có vướng mắc pháp luật phát sinh và có yêu cầu; đồng thời, trách nhiệm truyền thông chính sách cần giao cho chính quyền cấp xã (theo mô hình chính quyền địa phương 02 cấp) và phân bổ kinh phí của Chương trình về cho chính quyền xã thực hiện. Bên cạnh đó, cần lựa chọn các hoạt động truyền thông phù hợp với khả năng nhận thức của từng nhóm đối tượng, tránh giàn trải lãng phí nguồn lực.
2.4. Đa dạng hóa các hình thức, phương thức trợ giúp pháp lý
Trước khi Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 được ban hành, hoạt động trợ giúp pháp lý được thực hiện với nhiều hình thức: (i) Tư vấn pháp luật; (ii) Tham gia tố tụng với tư cách người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để thực hiện việc bào chữa; người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án hình sự; người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính; (iii) Đại diện ngoài tố tụng cho người được trợ giúp pháp lý để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật; (iv) Thực hiện các hình thức trợ giúp pháp lý khác (hoà giải; giúp đỡ pháp luật cho người được trợ giúp pháp lý trong quá trình khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại...),
Đến Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, việc thực hiện trợ giúp pháp lý bị giới hạn trong ba hình thức cơ bản (tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng). Trong tổ chức thi hành Luật, quan điểm chỉ đạo cũng theo xu hướng tập trung vào việc tham gia tố tụng bằng cách giao chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng cho từng trợ giúp viên pháp lý, đồng thời, lấy tiêu chí vụ việc tham gia tố tụng được đánh giá là thành công để làm tiêu chí xét thăng hạng viên chức đối với trợ giúp viên pháp lý. Bên cạnh đó, tiêu chí đánh giá chất lượng vụ việc cũng chỉ tập trung vào vụ việc tham gia tố tụng và vụ việc đại diện ngoài tố tụng mà ít quan tâm đến chất lượng vụ việc tư vấn pháp luật (sự hài lòng của người được trợ giúp pháp lý - tiêu chí quan trọng nhất để đo chất lượng dịch vụ pháp lý thì không được sử dụng trong đánh giá chất lượng vụ việc tư vấn pháp luật). Hơn nữa, việc tư vấn pháp luật chỉ thực hiện tại trụ sở của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, trong khi người có yêu cầu trợ giúp pháp lý chủ yếu cư trú ở vùng sâu, vùng miền núi, biên giới, hải đảo, dẫn đến tình trạng vụ việc tư vấn pháp luật giảm mạnh.
Song hành với việc thu gọn hình thức trợ giúp pháp lý, các phương thức trợ giúp pháp lý truyền thống như trợ giúp pháp lý lưu động về cơ sở cũng bị bãi bỏ trong khi không có phương thức phù hợp khác thay thế, do vậy, khả năng tiếp cận với trợ giúp pháp lý của người được trợ giúp pháp lý cũng giảm dần, điều này được minh chứng qua thống kê số liệu vụ việc trợ giúp pháp lý theo từng năm. Trong 20 năm (1997 - 2017), thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý lưu động về các xã, các thôn, bản đã đem lại hiệu quả to lớn với hàng triệu lượt người được trực tiếp nghe phổ biến, truyền thông về chính sách, pháp luật trong trong vực trợ giúp pháp lý và các lĩnh vực khác liên quan mật thiết đến quyền, nghĩa vụ của người dân; hàng trăm nhìn vụ việc trợ giúp pháp lý đã được tiếp nhận và giải quyết; đặc biệt là thông qua trợ giúp pháp lý lưu động, ngoài việc giúp đỡ, bảo vệ quyền lợi hợp pháp và động viên người dân thực hiện đúng nghĩa vụ mà pháp luật quy định, các tổ chức trợ giúp pháp lý cũng hỗ trợ, cùng cấp ủy, chính quyền địa phương giải quyết dứt điểm nhiều “điểm nóng” về giải phóng mặt bằng, tranh chấp đất đai, di dịch cư tự do.
Ngày nay, mặc dù internet đã phủ kín tới tất cả các vùng núi, biên giới, hải đảo và phần lớn dân cư đã có thể sử dụng điện thoại thông minh với một số ứng dụng công nghệ số phục vụ đời sống cá nhân, hơn nữa, Đảng và Nhà nước cũng chủ trương đẩy mạnh các hình thức, biện pháp truyền thông để đưa chính sách, pháp luật đến với người dân, tuy nhiên, mỗi hình thức, cách thức đều có những lợi thế nhất định và sẽ đem lại hiệu quả tương ứng. Vì vậy, cần nghiên cứu để tổ chức hoạt động trợ giúp pháp lý lưu động một cách thiết thực, phục vụ tốt nhất lợi ích của người dân, dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”[16] trong trợ giúp pháp lý.
Ở khía cạnh quản lý, xuất phát từ mong muốn chuyên nghiệp hóa và bảo đảm chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, đội ngũ cộng tác viên trợ giúp pháp lý cũng bị thu hẹp, chỉ sử dụng “ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn” và muốn trở thành cộng tác viên trợ giúp pháp lý thì họ phải là trợ giúp viên pháp lý, thẩm phán, thẩm tra viên ngành Tòa án, kiểm sát viên, kiểm tra viên ngành Kiểm sát, điều tra viên, chấp hành viên, thẩm tra viên Thi hành án dân sự, chuyên viên làm công tác pháp luật tại các cơ quan nhà nước đã nghỉ hưu. Trong thực tế, phần lớn những cán bộ thuộc diện trên khi nghỉ hưu đều cư trú tại các vùng đô thị và các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển. Thời điểm hiện nay, cả nước chỉ có 22 cộng tác viên trợ giúp pháp lý ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước và cũng chưa thực hiện được bất kể vụ việc trợ giúp pháp lý nào. Điều đó cho thấy, chính sách này bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu cơ sở thực tiễn và không có tính khả thi. Trước đây, trong một thời gian dài, đội ngũ cộng tác viên trợ giúp pháp lý được thiết lập mở rộng đến tất cả các thôn, bản (họ là già làng, trưởng thôn, người có uy tín trong cộng đồng dân cư...) là “cầu nối” giữa Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước với người được trợ giúp pháp lý tại cơ sở thì theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, “cầu nối” này không còn tồn tại. Điều đó không những làm mất đi “một kênh” quan trọng để truyền thông chính sách, pháp luật về trợ giúp pháp lý đến với người dân mà còn giảm khả năng của người được trợ giúp pháp lý được tiếp cận và thực hiện quyền của mình khi có nhu cầu được trợ giúp pháp lý.
Hiện nay, cả nước ta có gần 30.000 người có uy tín trong cộng đồng. Đó là những người được thôn bản, buôn, làng, phum, sóc bình chọn, suy tôn, gắn bó mật thiết với nhân dân[17]. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, người có uy tín trong cộng đồng dân tộc thiểu số được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, họ giữ vai trò quan trọng trong việc đưa chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với đồng bào dân tộc thiểu số. Vì vậy, trong thời gian tới, cần nghiên cứu, xác định vai trò, công việc cụ thể của đội ngũ người có uy tín trong cộng đồng trong hoạt động trợ giúp pháp lý, bảo đảm cho người dân cư trú ở mọi thôn, bản, buôn, làng, phum, sóc trên mọi miền của đất nước đều được hưởng trợ giúp pháp lý của Nhà nước.
2.5. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý
Với việc tham gia 16 hiệp định tương trợ tư pháp với các nước, trong những năm qua, hệ thống trợ giúp pháp lý ở Việt Nam đã tổ chức thực hiện tương đối tốt hoạt động trợ giúp pháp lý theo các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký kết. Do những đặc điểm riêng biệt về văn hóa, dân tộc, chế độ chính trị... của từng nhóm người thuộc diện được trợ giúp pháp lý ở mỗi quốc gia nên việc thực hiện trợ giúp pháp lý cho họ trên lãnh thổ Việt Nam cũng đòi hỏi phải có tính đặc thù, như phòng thực hiện trợ giúp pháp lý, tiêu chuẩn và điều kiện của người được phân công thực hiện trợ giúp pháp lý, ngôn ngữ sử dụng, phiên dịch… qua đó, bảo đảm nguyên tắc của hoạt động trợ giúp pháp lý cũng như các các quy định khác của pháp luật liên quan đến vấn đề bảo vệ bí mật nhà nước, an ninh quốc gia. Do đó, cần xây dựng quy trình thực hiện trợ giúp pháp lý phù hợp với các nhóm người này. Đồng thời, tiếp tục phát huy những kết quả về hợp tác với các tổ chức quốc tế để hỗ trợ tài chính, kinh nghiệm trợ giúp pháp lý của các nước, góp phần thúc đẩy trợ giúp pháp lý ở Việt Nam phát triển.
Thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế sâu rộng, nhiều người Việt Nam đã sang học tập, lao động tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Hiện nay, “với khoảng 6 triệu người sinh sống tại hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ”[18], trong đó có “trên 700.000 lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”[19]. Trong nhiều năm qua, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng lớn mạnh, một mặt khẳng định được vai trò, vị thế, uy tín, văn hóa và đóng góp tích cực vào phát triển của quốc gia sở tại, mặt khác góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa Việt Nam với các nước, cũng như công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Để phát huy nguồn lực này, rất cần có sự quan tâm, hỗ trợ, chăm lo về nhiều mặt trong đó có việc bảo đảm quyền trợ giúp pháp lý của những người thuộc diện trợ giúp pháp lý đang ở nước ngoài bằng các chính sách cụ thể: (i) Sửa đổi, bổ sung Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020, bên cạnh quy định về việc bồi dưỡng kỹ năng nghề, ngoại ngữ thì phải bồi dưỡng về kiến thức pháp luật cơ bản nói chung và pháp luật về trợ giúp pháp lý nói riêng của nước sở tại cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài, bảo đảm cho họ có thể yêu cầu trợ giúp pháp lý, sử dụng pháp luật của nước sở tại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. (ii) Hàng năm, Bộ Tư pháp cần phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan (Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao...) tổ chức các “đoàn ra” để nắm bắt tình hình tuân thủ pháp luật và việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người Việt Nam ở nước ngoài để từ đó thúc đẩy việc hoàn thiện cơ chế bảo vệ bằng pháp luật tại nước sở tại, đồng thời đề xuất đàm phán, ký kết các hiệp định tương trợ về tư pháp, trong đó có chính sách trợ giúp pháp lý.
2.6. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về trợ giúp pháp lý
Để giải tỏa những “điểm nghẽn”, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về trợ giúp pháp lý theo những định hướng như đã phân tích trên, Bộ Tư pháp cần sớm tổng kết Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 để đánh giá khách quan, toàn diện về hiệu quả, tác động của Luật và của các chính sách về trợ giúp pháp lý hiện hành trong đời sống xã hội, trên cơ sở đó, đề xuất sửa đổi toàn diện đạo luật này, bảo đảm sự bình đẳng và bảo đảm mục tiêu mọi người dân thuộc diện được trợ giúp pháp lý dù ở vùng thành thị hay miền núi, biên giới, hải đảo, dù ở trong nước hay ngoài nước đều có thể tiếp cận, yêu cầu trợ giúp pháp lý và được hưởng dịch vụ pháp lý miễn phí với chất lượng tốt nhất, bảo đảm “không ai bị bỏ lại phía sau”. Bên cạnh đó, cần hoàn chỉnh chính sách trợ giúp pháp lý trong các chương trình mục tiêu quốc gia, phù hợp với nguồn lực của từng Chương trình trong giai đoạn 2026 - 2030 theo hướng đặt ra các mục tiêu phải được lượng hóa “100% người thuộc diện trợ giúp pháp lý đều được tiếp cận và được trợ giúp pháp lý khi có yêu cầu” và xác định đây là một trong các tiêu chí để đánh giá hiệu quả của mỗi Chương trình, đồng thời là tiêu chí đánh giá xã, phường đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.
ThS. Phạm Quang Đại
Cục Phổ biến giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 77-78.
“Tổng quan về hình thành và phát triển công tác trợ giúp pháp lý ở Việt Nam”, https://trợ giúp pháp lý.moj.gov.vn.
Tờ trình số 335/TTr - CP ngày 23 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ về Dự án Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi).
Tờ trình số 335/TTr-CP ngày 23/9/2006 của Chính phủ về Dự án Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi).
Tờ trình số 335/TTr - CP ngày 23 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ về Dự án Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi).
Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 18/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ.
Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày 22/02/2022 của Thủ tướng Chính phủ.
Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ.
Số liệu của Bộ Tư pháp tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 và Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015 – 2025.
Số liệu của Bộ Tư pháp tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 và Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015 – 2025.
Thông báo số 108-TB/TPTW ngày 18/11/2024 của Văn phòng Trung ương Đảng.
Quyết định số 1690/QĐ-TTg ngày 26/12/2023 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án “Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực quản lý nhà nước và thực thi pháp luật về chuyển đổi số từ trung ương đến địa phương đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
"Động lực mới cho phát triển kinh tế", https://dantri.com.vn ngày 11/5/2025.
Công văn số 6079/BTP-trợ giúp pháp lý ngày 08/12/2023 của Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý trong Chương trình MTQG phát triển KTXH vingf đồng bào DTTS và miền núi.
Nghị quyết số 66 -NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
https://www.tapchicongsan.org.vn/ ngày 13/12/2023.
https://tienphong.vn/hon-700000-nguoi-viet-dang-lam-viec-o-nuoc-ngoai-gui-ve-4-ty-usdnam-post1704477.tpo