1. Khái quát quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 về khiếu nại, giải quyết khiếu nại
Thứ nhất, về đối tượng khiếu nại trong tố tụng hành chính: Theo Điều 28, Điều 327 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, đối tượng khiếu nại bao gồm các quyết định, hành vi trong tố tụng hành chính (TTHC) của cơ quan, người tiến hành TTHC[1]. Các quyết định, hành vi tố tụng là đối tượng khiếu nại trong TTHC phải là các quyết định, hành vi được ban hành, thực hiện trong TTHC và cá nhân, cơ quan, tổ chức có căn cứ cho rằng chúng trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Thứ hai, thời hiệu khiếu nại trong tố tụng hành chính: Điều 330 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định về thời hiệu khiếu nại lần đầu và Điều 335 quy định về thời hiệu khiếu nại lần hai. Thời hiệu khiếu nại lần đầu là 10 ngày kể từ ngày người khiếu nại nhận được hoặc biết được quyết định, hành vi tố tụng mà người đó cho rằng có vi phạm pháp luật. Thời hiệu khiếu nại lần hai là 05 ngày làm việc kể từ ngày người khiếu nại nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc kể từ ngày quá thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu mà khiếu nại không được giải quyết. Trường hợp có sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hạn quy định thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan sẽ không tính vào thời hiệu khiếu nại.
Thứ ba, hình thức khiếu nại trong tố tụng hành chính: Theo Điều 331 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, việc khiếu nại trong TTHC phải được thực hiện bằng văn bản với tên gọi là đơn khiếu nại. Đơn khiếu nại phải có các nội dung như sau: Ngày, tháng, năm khiếu nại; họ, tên, địa chỉ của người khiếu nại; nội dung, lý do khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại, có chữ ký hoặc điểm chỉ của người khiếu nại.
Thứ tư, thẩm quyền giải quyết khiếu nại, thời hạn giải quyết khiếu nại: Thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng được quy định tại Điều 332 Luật Tố tụng hành chính năm 2015. Ví dụ: Đối với khiếu nại về quyết định tố tụng của thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện thì sẽ do Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết. Khiếu nại hành vi tố tụng của Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện sẽ do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết. Thời hạn giải quyết khiếu nại trong TTHC được quy định tại Điều 333 Luật Tố tụng hành chính năm 2015. Theo đó, thời hạn giải quyết khiếu nại là một khoảng thời gian cần thiết do Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định đủ để các chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại khi có các khiếu nại. Theo đó, thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 15 ngày kể từ ngày Tòa án, Viện kiểm sát nhận được khiếu nại. Trường hợp cần thiết, đối với vụ việc có tính chất phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể được kéo dài nhưng không quá 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại.
Thứ năm, thủ tục giải quyết khiếu nại lần hai: Công tác giải quyết khiếu nại lần hai trong TTHC chỉ phát sinh khi có khiếu nại lần hai của người khiếu nại. Khi thực hiện khiếu nại lần hai, người khiếu nại phải tuân thủ về thủ tục, hình thức khiếu nại theo khoản 2 Điều 335 Luật Tố tụng hành chính năm 2015. Khi nhận được khiếu nại lần hai, các chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai phải có trách nhiệm tiếp nhận giải quyết. Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai phải được gửi cho người khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Quyết định này có hiệu lực thi hành.
2. Một số hạn chế, bất cập trong quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 về khiếu nại, giải quyết khiếu nại và kiến nghị hoàn thiện
Theo báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao những năm gần đây, tình hình khiếu nại trong tư pháp nói chung và trong TTHC nói riêng có xu hướng ngày càng nhiều, thậm chí, có những khiếu nại mang tính phức tạp, kéo dài. Cụ thể, tổng số đơn khiếu nại trong tư pháp trên cả nước trong năm 2020 là 5.576 đơn khiếu nại, năm 2021 là 5.211 đơn khiếu nại, năm 2022 là 4.146 đơn khiếu nại, năm 2023 là 5.674 đơn khiếu nại[2]. Thực tế này cho thấy, việc khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong tư pháp có tính thời sự rất cao, cần có sự chú trọng bảo đảm từ cả khía cạnh pháp luật lẫn thực tiễn áp dụng pháp luật. Nhìn chung, tình hình tiếp nhận, thụ lý giải quyết các khiếu nại trong tố tụng tại Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân trên cả nước đều bảo đảm được chất lượng, giải quyết kịp thời, đúng tiến độ, đáp ứng được kỳ vọng của nhân dân[3]. Tuy nhiên, dưới góc độ Luật Tố tụng hành chính năm 2015, một số quy định của đạo luật này về khiếu nại vẫn còn tồn tại hạn chế, bất cập, gây khó khăn, lúng túng cho các chủ thể thực thi và áp dụng pháp luật, cụ thể:
Thứ nhất, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan chưa có điều khoản độc lập quy định rõ ràng về đối tượng khiếu nại.
Việc quy định rõ ràng, cụ thể về đối tượng được khiếu nại là nội dung cần được thể hiện trong chế định khiếu nại, tố cáo của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 nhằm bảo đảm việc thực hiện quyền khiếu nại được đúng đắn, chính xác, hạn chế các trường hợp khiếu nại tràn lan, ảnh hưởng đến hoạt động giải quyết vụ án hành chính. Về phía người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, việc minh định các đối tượng được khiếu nại trong TTHC cũng là cơ sở để họ tiến hành thụ lý và giải quyết khiếu nại được thống nhất, đúng luật, có hiệu quả. Tuy nhiên, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 lại quy định về đối tượng khiếu nại ở mức chung chung, thiếu rõ ràng, gây khó khăn cho công tác thụ lý, giải quyết các khiếu nại. Bởi lẽ, Điều 327 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 có mục đích quy định về đối tượng khiếu nại với tiêu đề “Quyết định, hành vi trong TTHC có thể bị khiếu nại” nhưng nội dung của điều khoản lại thiên về việc quy định quyền khiếu nại của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nghĩa là, tiêu đề và nội dung thể hiện tại Điều 327 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 không tương thích với nhau. Mặt khác, cách thể hiện về đối tượng khiếu nại tại Luật Tố tụng hành chính năm 2015 là “cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng hành chính của cơ quan, người tiến hành tố tụng hành chính” cũng chưa rõ ràng. Theo đó, quyết định TTHC là quyết định bằng văn bản hay quyết định bằng miệng? Hành vi TTHC là hành vi hành động hay không hành động, được thực hiện trong phạm vi như thế nào? Các vấn đề này chưa được lý giải nên cũng gây khó khăn cho các chủ thể trong việc tiếp cận và áp dụng pháp luật vào những tình huống cụ thể, ở các khiếu nại cụ thể trong TTHC. Trong khi đó, cùng là đạo luật thủ tục, Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành lại có lối quy định khá tư duy mạch lạc về các đối tượng khiếu nại tại Điều 470[4].
Từ các phân tích trên đây và trên cơ sở tham chiếu quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2021 (Bộ luật Hình sự năm 2015) về đối tượng khiếu nại, tác giả đề xuất như sau:
- Cần thiết kế lại tiêu đề Điều 327 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 để tương thích với nội dung của điều khoản là: “Người có quyền khiếu nại trong TTHC”. Đề xuất này bảo đảm sự logic trong tư duy lập pháp, góp phần minh thị quy định của pháp luật, bảo đảm tính khả thi, đồng bộ, khoa học trong việc thực thi và áp dụng pháp luật.
- Nối tiếp điều khoản quy định về người có quyền khiếu nại trong TTHC, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 cần bổ sung điều luật trực tiếp quy định về đối tượng khiếu nại tương tự như Điều 470 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Theo đó, tiêu đề điều khoản này được thiết lập như sau: “Các quyết định, hành vi tố tụng có thể bị khiếu nại:
1. Quyết định tố tụng có thể bị khiếu nại là quyết định bằng văn bản của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân; thẩm phán; thẩm tra viên; Hội thẩm nhân dân; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân; kiểm sát viên; kiểm tra viên theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
2. Hành vi tố tụng có thể bị khiếu nại là hành vi hành động hoặc không hành động trong hoạt động tố tụng của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân; thẩm phán; thẩm tra viên; Hội thẩm nhân dân; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân; kiểm sát viên; kiểm tra viên theo quy định của Luật Tố tụng hành chính”.
Thứ hai, Luật Tố tụng hành chính hiện hành chưa có điều khoản đề cập về thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai.
Bên cạnh những thành công nhất định, pháp luật TTHC lại chưa có điều khoản quy định về thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai, trong khi thực tế, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 lại có điều khoản quy định về thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu tại Điều 333 và quy định về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại lần hai tại Điều 335. Hạn chế này có thể dẫn đến tình trạng kéo dài thời gian giải quyết khiếu nại lần hai theo ý muốn chủ quan của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, không bảo đảm đúng tiến độ của công tác giải quyết khiếu nại. Luật Tố tụng hành chính năm 2010 lại đề cập trực tiếp về thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai là 15 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại lần hai. Do vậy, việc Luật Tố tụng hành chính năm 2015 không đề cập đến thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai là thiếu sót cần lưu ý. Hệ quả của hạn chế này không chỉ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại mà còn tạo lỗ hổng không đủ chặt chẽ để giám sát công tác giải quyết khiếu nại trên thực tế.
Về giải pháp khắc phục, tác giả cho rằng, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 khi được sửa đổi trong thời gian tới cần bổ sung quy định về thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai. Theo đó, khi xác định thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai, các nhà làm luật cần phải suy xét đến nhiều yếu tố để quy định thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai không được ngắn quá và cũng không dài quá, quan trọng nhất phải bảo đảm được tiến độ giải quyết VAHC, chất lượng của việc giải quyết khiếu nại lần hai và đặc biệt bảo đảm được quyền và lợi ích của người khiếu nại, người bị khiếu nại trong TTHC. Trên tinh thần này, có quan điểm cho rằng, nên quy định thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai là 10 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại lần hai[5]. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, cần kế thừa lại tinh thần của Luật Tố tụng hành chính năm 2010, quy định thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai trong TTHC là 15 ngày nhận được khiếu nại lần hai, thời gian này là cần thiết, giúp người giải quyết khiếu nại có đủ thời gian để thẩm định, xem xét nội dung khiếu nại cho chính xác và chất lượng, đồng thời ở mặt lập pháp cũng có sự tương thích với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Theo đó, điều khoản quy định như sau: “Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai là 15 ngày kể từ ngày Tòa án, Viện kiểm sát nhận được đơn khiếu nại lần hai. Trường hợp cần thiết, đối với vụ việc có tính chất phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai”.
Thứ ba, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong tố tụng hành chính chưa toàn diện.
Điều 332 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại theo sự phân định nhân sự của Tòa án và Viện kiểm sát. Trong đó, đối với khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Chánh án Tòa án thì do Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp giải quyết, của Viện trưởng Viện kiểm sát do Viện trưởng Viện kiểm sát trên một cấp trực tiếp giải quyết. Khiếu nại về quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Chánh án, Viện trưởng Viện kiểm sát do Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát trên một cấp trực tiếp giải quyết. Về cơ bản, cách quy định này khá phù hợp với cơ cấu tổ chức, quản lý lãnh đạo của Tòa án, Viện kiểm sát, bảo đảm sự phối hợp giám sát chặt chẽ giữa cấp trên và cấp dưới, nâng cao được tính khách quan, minh bạch trong quá trình xem xét khiếu nại. Tuy nhiên, quan sát kỹ quy định trên, tác giả nhận thấy, điều khoản còn chưa rõ ràng.
Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, các khiếu nại về quyết định, hành vi tố tụng của Chánh án, Viện trưởng Viện kiểm sát sẽ do Chánh án, Viện trưởng trên một cấp trực tiếp giải quyết. Vậy, trong trường hợp các cá nhân, cơ quan, tổ chức khiếu nại lần đầu về quyết định, hành vi tố tụng của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao sẽ do chủ thể nào có thẩm quyền giải quyết? Bởi vì, trong hệ thống Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là chủ thể nắm giữ vị trí cao nhất nên nếu vận dụng quy định trên tại Điều 332 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì các khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao sẽ không xác định được chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Tương tự như vậy, khoản 3 Điều 332 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 cũng không thể được áp dụng để xác định chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai đối với các khiếu nại về quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Do đó, vì không có luật điều chỉnh nên trên thực tế hiện nay, tất cả các khiếu nại về quyết định, hành vi tố tụng của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do chính Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trực tiếp giải quyết. Cách xử lý này, thực tế không trái luật song chỉ mang tính chất tạm thời, chưa bảo đảm được tính khách quan, minh bạch, công bằng trong quá trình tiếp nhận giải quyết các khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cán bộ chủ chốt, quyền lực nhất trong hệ thống Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân. Thiết nghĩ cần phải có một quy định mang tính đột phá, khả thi hơn từ pháp luật TTHC.
Về giải pháp hoàn thiện, tác giả cho rằng, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 cần bổ sung quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao như sau:
“1. Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giải quyết.
2. Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao giải quyết”.
Thứ tư, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 chưa quy định về cách thức xử lý khi người khiếu nại rút khiếu nại trong tố tụng hành chính.
Theo quy định tại Điều 327 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, khi nhận thấy các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành TTHC có dấu hiệu trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng đó. Do vậy, việc khiếu nại thường xuất phát từ nhận thức chủ quan của người khiếu nại, nội dung khiếu nại có thể chính xác hoặc chưa chính xác. Nếu người khiếu nại nhận thấy khiếu nại của mình là chưa chính xác, thiếu căn cứ hoặc quyền và lợi ích của mình không bị xâm phạm đáng kể thì người khiếu nại có quyền “rút khiếu nại trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết khiếu nại”. Đây là quy định rất quan trọng, không những bảo đảm ý chí tự định đoạt của người khiếu nại mà còn tạo điều kiện để tranh chấp được giải quyết nhanh chóng. Tuy nhiên, hiện nay, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 lại không quy định cơ chế để các chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại xử lý trong trường hợp người khiếu nại rút khiếu nại. Do vậy, trên thực tiễn giải quyết khiếu nại tại các Tòa án, khi người khiếu nại rút khiếu nại, các chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thường xử lý theo ba hướng: (i) Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết khiếu nại; (ii) Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại sẽ trả lại đơn khiếu nại và chấm dứt không giải quyết khiếu nại; (iii) Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại sẽ ra quyết định với tiêu đề không xem xét, giải quyết khiếu nại.
Như vậy, về cùng một tình huống người khiếu nại rút khiếu nại mà thực tiễn tồn tại ba cách xử lý không thống nhất với nhau. Để làm rõ nội dung này, tác giả dẫn chứng hai vụ việc khiếu nại tại Tòa án nhân dân TP. HCM như sau:
Vụ việc thứ nhất: Ngày 14/4/2021, bà Hoàng Thị Hải L, địa chỉ tổ 10, khu phố 4, phường TCH, quận 12, TP. HCM có đơn khiếu nại đến Tòa án nhân dân TP. HCM về việc thẩm phán không khách quan trong quá trình giải quyết vụ án số 33/TB-TLVA ngày 22/01/2018. Tuy nhiên, đến ngày 21/4/2021, bà L đã rút đơn khiếu nại. Ngày 26/4/2021, Chánh án Tòa án nhân dân TP. HCM ra quyết định không xem xét, giải quyết yêu cầu khiếu nại của bà L[6].
Vụ việc thứ hai: Ngày 27/5/2021, ông Lê Doãn T, địa chỉ số 451/1A, phường 2, quận BT, TP. HCM có đơn khiếu nại lần 2 đến Tòa án nhân dân TP. HCM về việc chậm giải quyết vụ án hành chính theo Thông báo số 170/TB-TLVA ngày 26/5/2020. Tuy nhiên, đến ngày 25/6/2021, ông T đã rút đơn khiếu nại. Ngày 05/7/2021, Chánh án Tòa án nhân dân TP. HCM ra thông báo trả lại đơn khiếu nại của ông T[7].
Từ các phân tích, minh chứng nêu trên cho thấy tính chưa toàn diện của pháp luật TTHC, chưa bảo đảm được sự thống nhất, đồng bộ khi xử lý trường hợp người khiếu nại rút khiếu nại. Hạn chế này cần thiết được nghiên cứu và bổ sung.
Theo nghiên cứu của tác giả, hầu như các chuyên ngành luật khác đã có quy định về hướng giải quyết khi người khiếu nại rút đơn khiếu nại. Chẳng hạn[8]:
Trong pháp luật tố tụng hình sự, tại điểm g khoản 1 Điều 7 Thông tư liên tịch số 02/2018/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT ngày 05/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định việc phối hợp thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về khiếu nại, tố cáo đề cập: “... Trường hợp người khiếu nại rút khiếu nại thì ban hành quyết định đình chỉ việc giải quyết khiếu nại”.
Trong pháp luật tố tụng dân sự, tại khoản 1 Điều 10 Thông tư số 13/2021/TT-BTP ngày 30/12/2021 của Bộ Tư pháp quy định quy trình xử lý, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự quy định quy trình xử lý, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự đề cập: “Trường hợp người khiếu nại rút một phần hoặc toàn bộ khiếu nại thì trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu rút khiếu nại, người giải quyết khiếu nại đình chỉ giải quyết đối với nội dung khiếu nại đã rút và thông báo cho người khiếu nại biết. Việc rút khiếu nại phải được thể hiện bằng văn bản. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày có thông báo đình chỉ mà người khiếu nại có đơn khiếu nại trở lại thì người có thẩm quyền thụ lý và giải quyết khiếu nại theo quy định. Trường hợp người khiếu nại rút khiếu nại mà khiếu nại chưa được thụ lý giải quyết thì người có thẩm quyền không xem xét giải quyết nội dung khiếu nại đã rút, thông báo cho người khiếu nại biết và lưu đơn”.
Nhìn chung, pháp luật các chuyên ngành luật khác đã dự liệu về trường hợp người khiếu nại rút đơn khiếu nại và từ đó, đưa ra hướng giải quyết khá chi tiết, cụ thể. Trên cơ sở tham chiếu các quy định trên và dựa vào thực tiễn thực thi pháp luật, tác giả đề xuất hướng giải quyết khi người khiếu nại rút đơn khiếu nại trong tố tụng hành chính như sau:
“Trường hợp người khiếu nại rút một phần hoặc toàn bộ khiếu nại thì trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu rút khiếu nại, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đình chỉ giải quyết đối với nội dung khiếu nại đã rút và thông báo cho người khiếu nại biết.
Trường hợp người khiếu nại rút khiếu nại mà khiếu nại chưa được thụ lý giải quyết thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ra thông báo trả lại đơn khiếu nại”./.
ThS. Lê Thị Mơ
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
[1]. Theo quy định tại Điều 36 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Cơ quan tiến hành TTHC là Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; người tiến hành TTHC là Chánh án, thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, kiểm sát viên, kiểm tra viên.
[2]. Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao các năm 2020, 2021, 2022, 2023.
[3]. Báo cáo tóm tắt thẩm tra các báo cáo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của Ngành Tòa án nhân dân, Ngành Kiểm sát nhân dân năm 2022, tr. 6 - 7.
[4]. Điều 470 Bộ Luật Tố tụng hình sự quy định về các quyết định, hành vi tố tụng có thể bị khiếu nại. Trong đó, quyết định tố tụng có thể bị khiếu nại là các quyết định của Thủ trưởng, Phó Thủ Trưởng cơ quan điều tra, điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, thẩm phán, người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra được ban hành theo quy định của Bộ Luật này...
[5]. Nguyễn Thị Hồng Hương (2023), Khiếu nại trong tố tụng hành chính ở Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 66.
[6]. Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh (2021), Thống kê số lượng văn thư khiếu nại của Tòa Hành chính.
[7]. Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh (2021), Thống kê số lượng văn thư khiếu nại của Tòa Hành chính.
[8]. Nguyễn Thị Hồng Hương (2023), Khiếu nại trong tố tụng hành chính Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 70.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 404), tháng 5/2024)