Thứ tư 18/06/2025 13:05
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Các yếu tố và điều kiện đảm bảo thi hành kết luận giám sát của Quốc hội Việt Nam

Trên thực tế việc thực hiện pháp luật về giám sát và thực hiện các kết luận giám sát của Quốc hội đã đạt được nhiều thành tựu. Qua giám sát và kết luận giám sát đã đưa ra nhiều kiến nghị đóng góp vào hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng

Việc đảm bảo thi hành các kết luận giám sát của Quốc hội còn gặp nhiều khó khăn, hiệu quả chưa cao do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Bài viết đã có những phân tích, đánh giá về các yếu tố và điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của kết luật giám sát của Quốc hội

Trên thực tế việc thực hiện pháp luật về giám sát và thực hiện các kết luận giám sát của Quốc hội đã đạt được nhiều thành tựu. Qua giám sát và kết luận giám sát đã đưa ra nhiều kiến nghị đóng góp vào hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong cơ chế, chính sách và quản lý điều hành kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, được dư luận và nhân dân đồng tình, ủng hộ, quan tâm, đánh giá cao, qua đó góp phần nâng cao vai trò, uy tín, chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan Nhà nước, đặc biệt là hoạt động giám sát của Quốc hội. Tuy nhiên, việc đảm bảo thi hành các kết luận giám sát của Quốc hội còn gặp nhiều khó khăn, hiệu quả chưa cao. Có nhiều nguyên nhân của tình trạng trên, trong đó quy định về các yếu tố, điều kiện để đảm bảo thi hành các kết luận giám sát đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi các kết luận giám sát của Quốc hội. Cụ thể như sau:

Một là, khung pháp lý rõ ràng, cụ thể để triển khai thực hiện kết luận giám sát của Quốc hội

Để các kết luận giám sát được thực hiện nghiêm túc, triệt để, đồng thời là cơ sở để xác định trách nhiệm về pháp lý trong việc xử lý đối với kết quả thực hiện kết luận giám sát là điều kiện mang tính tiên quyết, đặc biệt quan trọng. Khung pháp lý trong điều chỉnh vấn đề triển khai thực hiện kết luận giám sát càng đầy đủ, chặt chẽ và hợp lý sẽ là khung nền đảm bảo các đơn vị, cá nhân được giao nhiệm vụ thực hiện kết luận giám sát chấp hành, không có sự né tránh, làm giảm tối đa tình trạng làm việc hời hợt, coi giám sát xong là xong. Khung pháp lý chính là định hướng về mặt pháp lý để các kết luận giám sát được thực hiện triệt để, đúng nội dung, trình tự, thủ tục, tránh tình trạng làm nhưng không rõ phải làm như thế nào, báo cáo đến đâu, không rõ về cơ chế giám sát sau kết luận. Khung pháp lý vững chắc, đồng bộ là nền tảng có tác dụng răn đe đối với các trường hợp cố tình thực hiện các hành vi trái luật, không thực hiện hoặc tìm cách lách luật trong thực hiện các kết luận giám sát đã được ban hành. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để Quốc hội, các cơ quan chuyên môn thực hiện giám sát, đại biểu Quốc hội xem xét mức độ thực hiện đối với các kết luận đã được mình đưa ra. Là cơ sở, căn cứ để Quốc hội, các cơ quan tố tụng xem xét, đánh giá mức độ chấp hành pháp luật, xử lý đối với các trường hợp sai phạm liên quan đến việc thực hiện công tác điều hành, quản lý, chấp hành các kết luận giám sát. Tại khoản 4, Điều 7 Luật Giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 xác định “Cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát có hành vi cản trở hoặc không thực hiện nghị quyết, kết luận, yêu cầu, kiến nghị của chủ thể giám sát thì chủ thể giám sát yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân đó. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, chủ thể giám sát yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát và người có liên quan”. Đây chính là cơ sở quan trọng, đi kèm các văn bản luật khác để xử lý về mặt pháp lý đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân không chấp hành, không thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm túc, thiếu đầy đủ các kết luận giám sát đã được đưa ra.

Hai là, xác định rõ trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cơ quan, tổ chức, các vị trí chức vụ, chức danh cụ thể trong việc thi hành các kết luận giám sát

Một vấn đề tồn tại trước đây là sau khi có kết luận giám sát, chưa có cơ chế thực sự rõ ràng trong công tác giám sát, theo dõi kết luận giám sát, hoặc có xác định nhưng quá trình triển khai lại chưa chặt chẽ, còn tồn tại tình trạng ỉ lại, ngại theo dõi, giám sát; chưa xác định trách nhiệm cho cá nhân hoặc xác định trách nhiệm nhưng không rõ ràng trong việc thực hiện, chỉ đạo thực hiện kết luận giám sát. Việc không xác định rõ trách nhiệm cá nhân người đứng đầu và các cơ quan, tổ chức, các vị trí chức vụ, chức danh cụ thể trong thực hiện, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện kết luận giám sát sẽ dẫn đến tình trạng bỏ bê, làm không đến nơi đến chốn, chất lượng giám sát do đó không thể đạt được mục đích, một số vấn đề được phát hiện nhưng không được thực hiện dứt điểm do kiểm soát chưa chặt chẽ. Khi các vấn đề phức tạp nảy sinh, kết luận giám sát không được thực hiện hiệu quả do đó khó có thể xác định trách nhiệm cá nhân, nảy sinh tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, không xử lý được trách nhiệm của từng cá nhân cụ thể.

Bên cạnh đó, nếu quy định rõ trách nhiệm rõ ràng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm cho người đứng đầu sẽ đảm bảo họ sẽ chú trọng hơn vấn đề chỉ đạo, giám sát việc thực hiện kết luận giám sát, giáo dục, đốc thúc cấp dưới thực hiện nghiêm túc, triệt để, làm tốt việc báo cáo kết quả thực hiện kết luận giám sát tại cơ quan, đơn vị. Vấn đề giao nhiệm vụ cá nhân sẽ giúp họ thấy rõ được hệ quả không chỉ đối với cơ quan, đơn vị mà còn chính đến uy tín, danh dự, hệ quả pháp lý mà họ phải gánh chịu trước Quốc hội, Nhân dân và pháp luật. Giao trách nhiệm cho từng cơ quan, đơn vị là cơ sở để nâng cao chất lượng giám sát, có điều kiện để tập trung nhân lực, phát huy trình độ chuyên môn của các cơ quan, đơn vị; đây là nhân tố để Quốc hội chỉ đạo thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng lĩnh vực chuyên môn. Để đảm bảo việc thi hành kết luận giám sát, Quốc hội và các cơ quan chuyên môn thực hiện chức năng giám sát cần chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thực hiện kết luận giám sát giao nhiệm vụ cho từng cá nhân cụ thể, tránh tình trạng giao việc chung chung, đảm bảo các cá nhân được giao nhiệm vụ sẽ xác định rõ trách nhiệm của mình, thời gian, cơ chế thực hiện, hạn chế tối đa tình trạng ỉ lại, né tránh, “cha chung không ai khóc”.

Ba là, sự kiểm soát, chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hoạt động của các cơ quan chuyên môn và Đại biểu Quốc hội trong theo dõi việc thực hiện kết luận giám sát

Một nhân tố quan trọng đảm bảo việc thực hiện các kết luận giám sát là mức độ chỉ đạo của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với các vấn đề đã được thống nhất đưa ra. Các vấn đề được đưa ra trong kết luận giám sát càng được sự quan tâm, chỉ đạo của Quốc hội từ việc nghiên cứu, thông qua dưới hình thức các nghị quyết để thực hiện. Việc Quốc hội trực tiếp hoặc chỉ đạo thường xuyên, quyết liệt các cơ quan chuyên môn, đại biểu Quốc hội triển khai, phổ biến, hướng dẫn, giám sát các cơ quan, đơn vị, cá nhân thực hiện kết luận giám sát sẽ là cơ sở để các kết luận đó được thực hiện nghiêm túc, nhanh chóng, đúng định hướng, hạn chế tối đa tình trạng làm việc thiếu nghiêm túc, mang tính hình thức. Thực tiễn cho thấy, ở các địa phương, bộ ngành, vào các thời điểm khác nhau với mức độ chỉ đạo, giám sát việc thực hiện kết luận giám sát khác nhau sẽ đem lại hiệu quả khác nhau. Càng chỉ đạo quyết liệt, giám sát việc thực hiện chặt chẽ sẽ đem lại hiệu quả cao và ở đâu, thời gian nào có sự buông lỏng công tác giám sát sẽ làm hạn chế hiệu quả của các kết luận giám sát đã được đưa ra. Công tác chỉ đạo cũng là cơ sở để Quốc hội kịp thời đánh giá chất lượng, hiệu quả trong thực hiện kết luận giám sát, kịp thời có các chỉ đạo, điều chỉnh, bổ sung các vấn đề mới hoặc chưa phù hợp. Công tác kiểm sát, chỉ đạo của Quốc hội sẽ đảm bảo việc phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm, thực hiện kém hiệu quả, thay thế những người không đủ năng lực, trình độ chuyên môn trong thực hiện các kết luận giám sát.

Bốn là, phẩm chất chính trị, đạo đức công vụ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm công tác của cán bộ, người trực tiếp triển khai thực hiện kết luận giám sát

Để tạo nên sự thành công trong thực hiện các kết luận giám sát, vấn đề phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ có vai trò đặc biệt quan trọng, là yếu tốt cốt lõi cho việc thực hiện thành công hay thất bại. Cán bộ có phẩm chất chính trị, đạo đức công vụ tốt sẽ quyết định các kết luận giám sát được thực hiện đúng định hướng của Đảng, chỉ đạo của Quốc hội, đảm bảo quá trình triển khai đúng pháp luật với mức độ cố gắng tối đa để hoàn thành được nội dung các kết luận giám sát. Nếu cán bộ có phẩm chất chính trị hạn chế, tình thần, thái độ làm việc thấp sẽ dẫn tới sự lệch lạc, làm không nhiệt tình, thiếu chặt chẽ, tránh tình trạng cố tình vi phạm, né tránh trong quá trình thực hiện.

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác sẽ ảnh hưởng tới mức độ hiệu quả trong thực hiện các nội dung công việc theo yêu cầu tại các kết luận giám sát. Đối với các kết luận giám sát nói chung, đặc biệt là các vấn đề quan trọng đòi hỏi đội ngũ cán bộ thực hiện phải có trình độ cao, hiểu sâu vấn đề thực hiện, liên hệ chặt chễ được các vấn đề liên quan khác, nắm chắc về luật, các văn bản hướng dẫn. Bên cạnh đó, đòi hỏi cán bộ thực hiện phải là người dày dặn kinh nghiệm trong lĩnh vực thực hiện, tránh tình trạng giao việc cho người thiếu chuyên môn, kinh nghiệm. Cán bộ, người thực hiện có trình độ chuyên môn tốt, nhiều kinh nghiệm bên cạnh việc thực hiện tốt các yêu cầu, còn chủ động xác định được các vấn đề mới, vấn đề khó khăn, phức tạp, bất cập trong quá trình triển khai và có sự tham mưu, góp ý tốt cho lãnh đạo cấp trên, cơ quan, đơn vị trong quá trình triển khai thực hiện.

Phẩm chất chính trị, đạo đức công vụ và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác của cán bộ, người trực tiếp triển khai thực hiện kết luận giám sát sẽ đảm bảo các kết luận giám sát được thực hiện đúng hướng, triệt để, mang lại chất lượng, hiệu quả cao nhất, phòng tránh và chủ động chống lại các biểu hiện lệch lại, sai phạm trong quá trình thực hiện kết luận giám sát của Quốc hội.

Năm là, công tác phối hợp giữa các chủ thể có liên quan trong thực hiện kết luận giám sát của Quốc hội

Bên cạnh các nhân tố đã được phân tích, thì công tác phối hợp giữa các chủ thể chính là yếu tố quan trọng giữ vai trò là hỗ trợ, tạo ra sức mạnh tổng hợp nhằm đảm bảo các kết luận giám sát được thực hiện chặt chẽ.

Công tác phối hợp được thực hiện giữa Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội và giữa các cơ quan nói trên với Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các bộ, ngành, chính quyền địa phương, các tổ chức, cá nhân có liên quan khác. Vấn đề phối hợp sẽ là điều kiện quan trọng để Quốc hội, các bên phối hợp, trao đổi, cung cấp các thông tin, tài liệu cần thiết để triển khai thực hiện kết luận giám sát, đối chiếu, đánh giá kết quả thực hiện các kết luận giám sát. Phối hợp trong xác định trách nhiệm của các bên từ việc phân công thực hiện kết luận giám sát của Quốc hội, kiểm tra các thông tin phản hồi, phối hợp nhằm điều tra, làm rõ các trường hợp sai phạm, các trường hợp có dấu hiệu tội phạm, vi phạm pháp luật. Thông qua hoạt động phối hợp sẽ giúp các bên tiếp nhận được các kiến nghị, yêu cầu, ý kiến đóng góp có giá trị liên quan đến quá trình thực hiện kết luận giám sát.

Hoạt động phối hợp có thể được đánh giá theo chiều dọc giữa cơ quan chỉ đạo thực hiện kết luận giám sát cấp trên đến các cơ quan cấp dưới, các cơ quan, đơn vị, cá nhân thực hiện, cụ thể hóa kết luận giám sát. Chẳng hạn, Ủy ban thường vụ Quốc hội thực hiện chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động giám sát như phân công Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội thẩm tra các báo cáo và thực hiện một số nội dung trong chương trình giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Yêu cầu Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội hằng năm báo cáo về dự kiến chương trình, nội dung, kế hoạch giám sát của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội. Yêu cầu Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội điều chỉnh chương trình, kế hoạch, thời gian, địa điểm thực hiện giám sát của mình để tránh trùng lặp, chồng chéo về nội dung, thời gian, địa điểm giám sát. Yêu cầu Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội phối hợp thực hiện hoạt động giám sát ở cùng một địa phương, cơ quan, đơn vị để bảo đảm chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát. Thực hiện các kết luận giám sát cũng cần sự tham gia thực hiện giữa các bên cùng cấp, các ngành, lĩnh vực khác nhau trong trao đổi, phối hợp cung cấp thông tin, cùng phối hợp thực hiện, tham gia tổng kết, đánh giá, tham gia góp ý cho quá trình thực hiện, tham gia các đoàn kiểm tra liên ngành đối với việc thực hiện kết luận giám sát. Phối hợp giữa Quốc hội, các cơ quan chức năng với các tổ chức, cá nhân trong tiếp nhận các thông tin tố giác, tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo, tiếp thu các kiến nghị, đóng góp ý kiến của nhân dân đối với các vấn đề trong kết luận giám sát.

Sáu là, một số các yếu tố khác

Ngoài ra, việc đảm bảo thực thi các kết luận giám sát của Quốc hội còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác như:

- Yếu tố chính trị (quyết tâm chính trị), chế độ chính trị, chủ thể chính trị; yếu tố chính trị ở đây được hiểu là mọi kết luận giám sát của Quốc hội thì không được trái với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đảng chính trị lãnh đạo Quốc hội, chỉ đạo hoạt động giám sát và ban hành kết luận giám sát. Tuy nhiên, sự chỉ đạo, lãnh đạo ở đây được thể hiện bằng chủ trương, đường lối, chính sách của mình trong công tác của Quốc hội. Còn Quốc hội làm gì? Làm như thế nào để đạt được hiệu lực, hiệu quả cao mà không trái với chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước là được.

- Yếu tố đảm bảo về nhận thức, trước hết là sự thống nhất nhận thức về vai trò giám sát của Quốc hội và việc thực thi kết luận giám sát trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như một hoạt động nhằm mục đích nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong các quyết định, hành động và chính sách của mình. Vì vậy, cần có sự hợp tác giữa các cơ quan hành pháp với các cơ quan của Quốc hội trong quá trình tiến hành hoạt động giám sát. Chỉ có sự thống nhất về nhận thức mới tạo điều kiện thuận lợi để Quốc hội thực hiện đúng, đủ thẩm quyền giám sát của mình. Nhận thức thống nhất sẽ có tác dụng tăng cường sự phối hợp và trách nhiệm của từng cơ quan trong quy trình giám sát. Tư tưởng, nhận thức đúng đắn về vai trò giám sát của Quốc hội bao hàm cả nhận thức về tính độc lập, khách quan của các chủ thể trong quá trình thức hiện quyền giám sát. Quốc hội và đại biểu Quốc hội cần được đảm bảo thực quyền trong việc đánh giá, đưa ra kiến nghị giám sát trên cơ sở tuân thủ Hiến pháp và pháp luật vì quyền lợi của cử tri, không bị tác động, ảnh hưởng bởi bất kỳ luồng tư tưởng, cơ chế hoặc hành vi của tổ chức, cá nhân nào.

- Các yếu tố về xã hội: Các yếu tố về xã hội bao gồm các điều kiện về tâm lý và động thái của xã hội tiếp nhận và ủng hộ các hành vi giám sát, kết luận giám sát của các chủ thể giám sát, thái độ phê phán các hành vi tiêu cực trong thực thi kiến nghị giám sát... Để có được những điều này thì việc giáo dục ý thức, nâng cao dân trí và phát huy sức mạnh của phương tiện thông tin đại chúng là hết sức quan trọng. Đây là yếu tố đảm bảo quan trọng vì xét cho cùng thái độ (ủng hộ hay phê phán) của cử tri, của dư luận xã hội đối với hoạt động giám sát của Quốc hội là sự kiểm chứng khách quan hiệu lực và hiệu quả của hoạt động này.

- Các điều kiện về kinh tế và khoa học kỹ thuật (tài chính, điều kiện phương tiện, trang bị vật chất, thông tin...)

Đây cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi kết luận giám sát. Các nước có điều kiện kinh tế và khoa học kỹ thuật thường được thành lập văn phòng riêng cho nghị sĩ tại đơn vị bầu cử với đầy đủ phương tiện kỹ thuật và được hỗ trợ kinh phí thuê đội ngũ nhân viên giúp việc, các chuyên gia hỗ trợ việc thu thập xử lý thông tin, giúp cho nghị sĩ có cơ sở hình thành chính kiến, chất vấn Chính phủ và đảm bảo kết luận giám sát của Quốc hội phải được thực thi có hiệu quả. Điều kiện tài chính đầy đủ giúp cho nghị sĩ có thể duy trì mối quan hệ thường xuyên và chặt chẽ với địa phương, có thông tin đầy đủ hỗ trợ cho hoạt động giám sát cũng như thực hiện chức năng đại diện của mình. Khi có được nguồn tài chính và phương tiện vật chất - kỹ thuật đầy đủ để tiến hành giám sát, được cập nhật một cách thường xuyên và toàn diện các thông tin cần thiết, khách quan thì đại biểu Quốc hội sẽ có căn cứ để thẩm tra, đánh giá các chính sách, hoạt động của các cơ quan nhà nước và khi đó hiệu quả thực thi kết luận giám sát sẽ được nâng lên một bước khả quan./.

Nguyễn Xuân Thủy

Học viện Cảnh sát nhân dân

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm