Thứ sáu 20/06/2025 10:51
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Giải quyết tranh chấp, yêu cầu hủy giấy tờ giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án - Một số vấn đề từ thực tiễn

Trường hợp có giao dịch về tài sản kể từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng đã hoàn thành việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng thì chấp hành viên không kê biên tài sản mà thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự và có văn bản thông báo cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để phối hợp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản.


1. Về việc xử lý khi phát sinh tranh chấp liên quan đến tài sản thi hành án

Về vấn đề này, trong thực tiễn áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật Thi hành án dân sự) còn tồn tại một số bất cập, vướng mắc như sau:

Một là, về trách nhiệm thông báo quyền khởi kiện hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết của chấp hành viên

Theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự thì chấp hành viên có trách nhiệm thông báo cho đương sự, người có tranh chấp về quyền khởi kiện khi thỏa mãn hai điều kiện: (i) Tài sản của người phải thi hành án bị cưỡng chế; (ii) Có người khác tranh chấp. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định này vẫn còn có một số vướng mắc như:

- Việc thực hiện thông báo cho đương sự, người có tranh chấp hiện nay quy định còn chung chung, chưa cụ thể khi nào tranh chấp thì phải thông báo, giai đoạn trước khi kê biên, trong khi kê biên hay sau khi kê biên? Do đó, cần phải có thời hạn rõ ràng để tránh việc đương sự lợi dụng quy định của pháp luật, gây kéo dài thời gian tổ chức thi hành án.

- Nếu sau khi đã hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ mà đương sự, người có tranh chấp không khởi kiện tại Tòa án hoặc không đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì chấp hành viên xử lý tài sản để thi hành án theo quy định. Tuy nhiên, trong quá trình chấp hành viên xử lý tài sản thì những người được thông báo trước đây lại khởi kiện tại Tòa án hoặc không đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, thì trong trường hợp này, chấp hành viên có phải dừng việc thi hành án để chờ kết quả giải quyết tranh chấp của cơ quan có thẩm quyền hay không? Hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể về vấn đề này. Do vậy, đa số cơ quan thi hành án đều phải dừng việc thi hành án, gây ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả của công tác thi hành án dân sự. Chúng tôi cho rằng, việc hiểu và áp dụng pháp luật như vậy là chưa phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự về cách tính thời hạn và thời hiệu (khoản 1 Điều 149 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định).

Về nội hàm của khái niệm “tranh chấp” tại Điều 75 Luật Thi hành án dân sự, điều luật chỉ quy định chung là “trường hợp tài sản của người phải thi hành án bị cưỡng chế để thi hành án mà có người khác tranh chấp”, nhưng không xác định cụ thể loại tranh chấp và nội dung tranh chấp là gì, dẫn đến còn có nhiều quan điểm và cách hiểu chưa thống nhất. Có quan điểm cho rằng, chỉ cần có tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế của người phải thi hành thì chấp hành viên có trách nhiệm thông báo cho đương sự, người có tranh chấp về quyền khởi kiện hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Theo quan điểm khác, tranh chấp đó phải liên quan đến quyền sở hữu tài sản bị kê biên thì mới thông báo cho các bên quyền khởi kiện hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Do đó, cần có quy định hướng dẫn rõ những tranh chấp về nội dung gì đối với tài sản của người phải thi hành án bị cưỡng chế thì mới được áp dụng thời hạn thực hiện quyền khởi kiện, hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định này. Có thể nói, hầu hết các tranh chấp dân sự liên quan đến tài sản đều được Tòa án thụ lý giải quyết và việc khởi kiện hay không là quyền của đương sự. Tuy nhiên, đối với tranh chấp về tài sản bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự thì cần phải có giới hạn về nội dung tranh chấp, nhằm hạn chế việc đương sự lợi dụng quyền khởi kiện này. Mặt khác, cũng cần quy định các điều kiện nhất định để chứng minh cho việc tranh chấp là có cơ sở để chấp nhận. Ví dụ như đương sự cần cung cấp các tài liệu gì để chứng minh là có tranh chấp, tính pháp lý của các tài liệu đó... để chấp hành viên xem xét, quyết định.

Hai là, về thời hạn để chấp hành viên xử lý tài sản

Cần có quy định hướng dẫn cụ thể về việc tranh chấp xảy ra ở giai đoạn nào trong quá trình tổ chức thi hành án thì được áp dụng quy định trên, nhằm hạn chế tối đa việc đương sự lợi dụng quyền khởi kiện tranh chấp tài sản để kéo dài thời gian tổ chức thi hành án. Theo quy định thì “trường hợp tài sản của người phải thi hành án “bị cưỡng chế” để thi hành án mà có người khác tranh chấp”, như vậy, rõ ràng đây là giai đoạn đã có đủ căn cứ pháp luật để xác định tài sản này là tài sản của người phải thi hành án nên đã bị chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế (ví dụ như đã ra quyết định kê biên). Vậy thì, khi tranh chấp xảy ra trước thời điểm có quyết định cưỡng chế của chấp hành viên thì giải quyết như thế nào? Trong thực tiễn, khi có người tranh chấp đối với tài sản đang xử lý để thi hành án trước thời điểm có quyết định cưỡng chế thì chấp hành viên có thể chia làm hai trường hợp để giải quyết:

- Trường hợp thứ nhất là tài sản đang xử lý chưa có căn cứ rõ ràng để xác định đó là tài sản thuộc sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án, thì chấp hành viên hướng dẫn cho họ khởi kiện hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết, nhưng không áp dụng cách tính thời hạn thực hiện quyền yêu cầu khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự và chấp hành viên cũng chưa ra quyết định cưỡng chế xử lý tài sản vì chưa có đủ cơ sở pháp lý của tài sản.

- Trường hợp thứ hai là tài sản đang xử lý đã có đủ căn cứ pháp lý để xác định đó là tài sản thuộc sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án, thì chấp hành viên vẫn tiến hành ra quyết định cưỡng chế theo quy định, đồng thời, thông báo cho đương sự và người có tranh chấp biết để thực hiện quyền khởi kiện hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự. Đối với trường hợp này thì cần phải xác định rõ trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ mà đương sự, người có tranh chấp không khởi kiện tại Tòa án hoặc không đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì chấp hành viên xử lý tài sản để thi hành án theo quy định của Luật Thi hành án dân sự. Như vậy, khi đã hết thời hạn trên mà không có ai khởi kiện tại Tòa án hoặc không đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì coi như họ đã từ bỏ quyền lợi của mình liên quan đến tài sản (nếu có). Sau đó, cho dù họ có khởi kiện tại Tòa án hay đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì cũng không phải là căn cứ để hoãn thi hành án theo điểm d khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự.

Ba là, vấn đề hoãn thi hành án khi tài sản có tranh chấp

Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự, một trong những trường hợp thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án đó là tài sản để thi hành án đã được Tòa án thụ lý để giải quyết theo quy định tại Điều 74 và Điều 75 của Luật Thi hành án dân sự. Theo đó, tài sản để thi hành án đã được Tòa án thụ lý để giải quyết theo quy định tại Điều 74 Luật Thi hành án dân sự thuộc trường hợp xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để thi hành án và Điều 75 Luật Thi hành án dân sự thuộc trường hợp giải quyết tranh chấp, yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án. Do đó, việc xác định nội dung tranh chấp mà Tòa án thụ lý có thuộc trường hợp tranh chấp theo quy định tại Điều 75 Luật Thi hành án dân sự hay không là rất quan trọng, cần có quy định hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.

Trước đây, để hướng dẫn vấn đề nội dung tranh chấp này tại Điều 48, Điều 75 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 có được hiểu là tranh chấp về quyền sở hữu hay không, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 4967/BTP-TCTHADS ngày 03/12/2014 hướng dẫn như sau: Về nguyên tắc, theo quy định của Luật Thi hành án dân sự, trước khi kê biên tài sản, chấp hành viên có trách nhiệm xác minh, làm rõ và chỉ kê biên tài sản để đảm bảo việc thi hành án khi có căn cứ xác định tài sản sẽ kê biên là của người phải thi hành án, vì vậy, “tranh chấp” ở đây được hiểu là tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu tài sản (quyền chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt theo quy định của Bộ luật Dân sự), các tranh chấp không liên quan đến quyền sở hữu tài sản thì không có căn cứ để hoãn thi hành án.

Hướng dẫn như trên là hoàn toàn hợp lý, nhằm hạn chế tối đa việc đương sự cố tình tạo ra các tranh chấp giả tạo để kéo dài, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Tuy nhiên, hiện nay, Điều 48 và Điều 75 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014. Do vậy, đa số quan điểm cho rằng, cần có một văn bản hướng dẫn mới về việc thực hiện khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự theo hướng thu hẹp nội dung tranh chấp như tinh thần của văn bản hướng dẫn nêu trên. Mặt khác, nên chăng cần xem xét đưa nội dung này vào trong một văn bản pháp lý cao hơn để thuận lợi hơn trong việc áp dụng pháp luật.

Bên cạnh đó, cần quy định cụ thể tranh chấp ở giai đoạn nào thì hoãn thi hành án theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự. Bởi vì, việc không khống chế thời điểm được khởi kiện dẫn đến rất nhiều hệ lụy khác nhau, phần nào gây khó khăn cho quá trình tổ chức thi hành án. Đa số quan điểm cho rằng, nếu hết giai đoạn được hưởng quyền khởi kiện (30 ngày kể từ ngày được thông báo mà đương sự không khởi kiện tại Tòa án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết) thì không được hoãn thi hành án cho dù có tranh chấp được tòa án thụ lý.

2. Yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án

Về vấn đề này, thực tiễn triển khai quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự còn có một số tồn tại như sau:

Thứ nhất, khi nào thì được cho là “có căn cứ xác định giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án?

Hiện nay, chưa có một văn bản pháp luật nào hướng dẫn trường hợp nào là có căn cứ cho rằng giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án nên sẽ gây khó khăn cho chấp hành viên khi áp dụng quy định này trên thực tế.

Theo quy định tại mục 1 khoản 11 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự[1] thì:

“Trường hợp tài sản đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà phát sinh các giao dịch liên quan đến tài sản đó thì tài sản đó bị kê biên, xử lý để thi hành án. Chấp hành viên có văn bản yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đối với tài sản đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đối với tài sản đó.

Trường hợp có giao dịch về tài sản mà người phải thi hành án không sử dụng toàn bộ khoản tiền thu được từ giao dịch đó để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc có tài sản khác nhưng không đủ để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án thì xử lý như sau:

a) Trường hợp có giao dịch về tài sản nhưng chưa hoàn thành việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng thì chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo quy định. Khi kê biên tài sản, nếu có tranh chấp thì chấp hành viên thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự, trường hợp cần tuyên bố giao dịch vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự.

Trường hợp có giao dịch về tài sản kể từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng đã hoàn thành việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng thì chấp hành viên không kê biên tài sản mà thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự và có văn bản thông báo cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để phối hợp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản.

Việc xử lý tài sản được thực hiện theo quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền…”[2].

Về việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất và tài sản trên đất, Công văn số 1103/TCTHADS-NV1 ngày 30/3/2017 của Tổng cục Thi hành án dân sự về việc hướng dẫn một số vấn đề nghiệp vụ thi hành án dân sự trong đó có hướng dẫn thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất và tài sản trên đất để thực hiện việc kê biên đảm bảo việc thi hành án như sau:

“Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013 đã có những thay đổi về xác định thời điểm chuyển giao quyền sử dụng đất, nên cần phân biệt hai thời điểm cụ thể như sau:

- Thời điểm trước khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực (trước ngày 01/7/2014): Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003 và điểm c tiết 2.13 Mục 2 Phần III Thông tư số 09/2007/TT-BTNMT ngày 02/8/2007 của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn việc lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính thì thời điểm chuyển giao quyền sử dụng đất được xác định tại thời điểm có hiệu lực của các hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất (hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê, thuê lại quyền sử dụng đất; hợp đồng hoặc văn bản tặng cho quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất) được thực hiện trước ngày 01/7/2014 là thời điểm thực hiện đăng ký biến động tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất được xác định theo thời điểm (giờ, phút, ngày, tháng, năm) tiếp nhận hồ sơ hợp lệ.

- Thời điểm Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực (từ ngày 01/7/2014 đến nay).

Theo quy định tại khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 thì thời điểm thực hiện đăng ký biến động tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất được xác định kể từ thời điểm đăng ký vào Sổ địa chính, cụ thể là: “Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính”.

Như vậy, tùy từng trường hợp cụ thể, cơ quan THADS phải căn cứ quy định của pháp luật tại hai thời điểm trước, sau ngày 01/7/2014 để xác định thời điểm chuyển giao quyền sử dụng đất để làm căn cứ tổ chức thi hành án”.

Theo đó, khi xử lý tài sản là quyền sử dụng đất của người phải thi hành án đã chuyển nhượng cho người khác, chấp hành viên phải căn cứ vào thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để xử lý chứ không phải thời điểm ký hợp đồng.

Tuy nhiên, đối với quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự, vẫn cần có quy định hướng dẫn cụ thể về những trường hợp “có căn cứ xác định giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án” để thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật.

Thứ hai, về việc khởi kiện của chấp hành viên, ngoài quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự về quyền khởi kiện của chấp hành viên, thì tại khoản 5 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về đương sự trong vụ việc dân sự là: “Người yêu cầu giải quyết việc dân sự là người yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý làm căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của mình hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác”. Tại khoản 1 Điều 362 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng quy định: “Người yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự phải gửi đơn đến Tòa án có thẩm quyền quy định tại Mục 2 Chương III của Bộ luật này. Trường hợp chấp hành viên yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự theo quy định của Luật Thi hành án dân sự thì có quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”.

Như vậy, có thể thấy, hiện nay, việc khởi kiện, yêu cầu giải quyết đối với tài sản thi hành án của đương sự và chấp hành viên đã được pháp luật về thi hành án dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định khá rõ ràng. Tuy nhiên, đa số quan điểm cho rằng, quy định “hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu thì chấp hành viên yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đó” là chưa thực sự hợp lý, bởi vì:

- Việc yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch bị tranh chấp về bản chất là để đảm bảo quyền lợi cho người được thi hành án, do đó, người được thi hành án phải có trách nhiệm thực hiện việc yêu cầu khởi kiện này.

- Chấp hành viên là công chức, có chức năng, nhiệm vụ tổ chức thi hành bản án, quyết định và các công việc phụ trợ khác nhằm mục đích tổ chức thi hành án (như tổ chức bán đấu giá tài sản, tư vấn cho đương sự để họ thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ thi hành án...). Việc thực hiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch bị tranh chấp theo thủ tục tố tụng dân sự có thể dẫn đến nhiều hệ lụy khác phát sinh liên quan như: Tư cách tham gia tố tụng; trách nhiệm có liên quan trong trường hợp bản án, quyết định giải quyết tiếp theo ở các giai đoạn phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; thời gian tham gia tố tụng…

Mặt khác, quy định ấn định “sau 15 ngày mà người được thi hành án không yêu cầu thì chấp hành viên yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đó” đã biến việc yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu trở thành nghĩa vụ của chấp hành viên; trong một số trường hợp có thể sẽ tạo ra tâm lý ỷ lại của người được thi hành án để dành việc yêu cầu, khởi kiện cho chấp hành viên thực hiện. Do đó, cần sửa đổi quy định trên theo hướng: Trong trường hợp thấy cần thiết, chấp hành viên có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đó.

ThS. Hoàng Thị Thanh Hoa
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, Hà Nội
Hồ Quân Chính
Học viện Tư pháp


[1] Điều khoản này sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.

[2] Khoản 1 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung tại mục 1 khoản 11 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 01/5/2020.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm