1. Về việc xử lý khi phát sinh tranh chấp liên quan đến tài sản thi hành án
Về vấn đề này, trong thực tiễn áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật Thi hành án dân sự) còn tồn tại một số bất cập, vướng mắc như sau:
Một là, về trách nhiệm thông báo quyền khởi kiện hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết của chấp hành viên
Theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự thì chấp hành viên có trách nhiệm thông báo cho đương sự, người có tranh chấp về quyền khởi kiện khi thỏa mãn hai điều kiện: (i) Tài sản của người phải thi hành án bị cưỡng chế; (ii) Có người khác tranh chấp. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định này vẫn còn có một số vướng mắc như:
- Việc thực hiện thông báo cho đương sự, người có tranh chấp hiện nay quy định còn chung chung, chưa cụ thể khi nào tranh chấp thì phải thông báo, giai đoạn trước khi kê biên, trong khi kê biên hay sau khi kê biên? Do đó, cần phải có thời hạn rõ ràng để tránh việc đương sự lợi dụng quy định của pháp luật, gây kéo dài thời gian tổ chức thi hành án.
- Nếu sau khi đã hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ mà đương sự, người có tranh chấp không khởi kiện tại Tòa án hoặc không đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì chấp hành viên xử lý tài sản để thi hành án theo quy định. Tuy nhiên, trong quá trình chấp hành viên xử lý tài sản thì những người được thông báo trước đây lại khởi kiện tại Tòa án hoặc không đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, thì trong trường hợp này, chấp hành viên có phải dừng việc thi hành án để chờ kết quả giải quyết tranh chấp của cơ quan có thẩm quyền hay không? Hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể về vấn đề này. Do vậy, đa số cơ quan thi hành án đều phải dừng việc thi hành án, gây ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả của công tác thi hành án dân sự. Chúng tôi cho rằng, việc hiểu và áp dụng pháp luật như vậy là chưa phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự về cách tính thời hạn và thời hiệu (khoản 1 Điều 149 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định).
Về nội hàm của khái niệm “tranh chấp” tại Điều 75 Luật Thi hành án dân sự, điều luật chỉ quy định chung là “trường hợp tài sản của người phải thi hành án bị cưỡng chế để thi hành án mà có người khác tranh chấp”, nhưng không xác định cụ thể loại tranh chấp và nội dung tranh chấp là gì, dẫn đến còn có nhiều quan điểm và cách hiểu chưa thống nhất. Có quan điểm cho rằng, chỉ cần có tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế của người phải thi hành thì chấp hành viên có trách nhiệm thông báo cho đương sự, người có tranh chấp về quyền khởi kiện hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Theo quan điểm khác, tranh chấp đó phải liên quan đến quyền sở hữu tài sản bị kê biên thì mới thông báo cho các bên quyền khởi kiện hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Do đó, cần có quy định hướng dẫn rõ những tranh chấp về nội dung gì đối với tài sản của người phải thi hành án bị cưỡng chế thì mới được áp dụng thời hạn thực hiện quyền khởi kiện, hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định này. Có thể nói, hầu hết các tranh chấp dân sự liên quan đến tài sản đều được Tòa án thụ lý giải quyết và việc khởi kiện hay không là quyền của đương sự. Tuy nhiên, đối với tranh chấp về tài sản bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự thì cần phải có giới hạn về nội dung tranh chấp, nhằm hạn chế việc đương sự lợi dụng quyền khởi kiện này. Mặt khác, cũng cần quy định các điều kiện nhất định để chứng minh cho việc tranh chấp là có cơ sở để chấp nhận. Ví dụ như đương sự cần cung cấp các tài liệu gì để chứng minh là có tranh chấp, tính pháp lý của các tài liệu đó... để chấp hành viên xem xét, quyết định.
Hai là, về thời hạn để chấp hành viên xử lý tài sản
Cần có quy định hướng dẫn cụ thể về việc tranh chấp xảy ra ở giai đoạn nào trong quá trình tổ chức thi hành án thì được áp dụng quy định trên, nhằm hạn chế tối đa việc đương sự lợi dụng quyền khởi kiện tranh chấp tài sản để kéo dài thời gian tổ chức thi hành án. Theo quy định thì “trường hợp tài sản của người phải thi hành án “bị cưỡng chế” để thi hành án mà có người khác tranh chấp”, như vậy, rõ ràng đây là giai đoạn đã có đủ căn cứ pháp luật để xác định tài sản này là tài sản của người phải thi hành án nên đã bị chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế (ví dụ như đã ra quyết định kê biên). Vậy thì, khi tranh chấp xảy ra trước thời điểm có quyết định cưỡng chế của chấp hành viên thì giải quyết như thế nào? Trong thực tiễn, khi có người tranh chấp đối với tài sản đang xử lý để thi hành án trước thời điểm có quyết định cưỡng chế thì chấp hành viên có thể chia làm hai trường hợp để giải quyết:
- Trường hợp thứ nhất là tài sản đang xử lý chưa có căn cứ rõ ràng để xác định đó là tài sản thuộc sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án, thì chấp hành viên hướng dẫn cho họ khởi kiện hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết, nhưng không áp dụng cách tính thời hạn thực hiện quyền yêu cầu khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự và chấp hành viên cũng chưa ra quyết định cưỡng chế xử lý tài sản vì chưa có đủ cơ sở pháp lý của tài sản.
- Trường hợp thứ hai là tài sản đang xử lý đã có đủ căn cứ pháp lý để xác định đó là tài sản thuộc sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án, thì chấp hành viên vẫn tiến hành ra quyết định cưỡng chế theo quy định, đồng thời, thông báo cho đương sự và người có tranh chấp biết để thực hiện quyền khởi kiện hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự. Đối với trường hợp này thì cần phải xác định rõ trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ mà đương sự, người có tranh chấp không khởi kiện tại Tòa án hoặc không đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì chấp hành viên xử lý tài sản để thi hành án theo quy định của Luật Thi hành án dân sự. Như vậy, khi đã hết thời hạn trên mà không có ai khởi kiện tại Tòa án hoặc không đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì coi như họ đã từ bỏ quyền lợi của mình liên quan đến tài sản (nếu có). Sau đó, cho dù họ có khởi kiện tại Tòa án hay đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì cũng không phải là căn cứ để hoãn thi hành án theo điểm d khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự.
Ba là, vấn đề hoãn thi hành án khi tài sản có tranh chấp
Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự, một trong những trường hợp thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án đó là tài sản để thi hành án đã được Tòa án thụ lý để giải quyết theo quy định tại Điều 74 và Điều 75 của Luật Thi hành án dân sự. Theo đó, tài sản để thi hành án đã được Tòa án thụ lý để giải quyết theo quy định tại Điều 74 Luật Thi hành án dân sự thuộc trường hợp xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để thi hành án và Điều 75 Luật Thi hành án dân sự thuộc trường hợp giải quyết tranh chấp, yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án. Do đó, việc xác định nội dung tranh chấp mà Tòa án thụ lý có thuộc trường hợp tranh chấp theo quy định tại Điều 75 Luật Thi hành án dân sự hay không là rất quan trọng, cần có quy định hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
Trước đây, để hướng dẫn vấn đề nội dung tranh chấp này tại Điều 48, Điều 75 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 có được hiểu là tranh chấp về quyền sở hữu hay không, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 4967/BTP-TCTHADS ngày 03/12/2014 hướng dẫn như sau: Về nguyên tắc, theo quy định của Luật Thi hành án dân sự, trước khi kê biên tài sản, chấp hành viên có trách nhiệm xác minh, làm rõ và chỉ kê biên tài sản để đảm bảo việc thi hành án khi có căn cứ xác định tài sản sẽ kê biên là của người phải thi hành án, vì vậy, “tranh chấp” ở đây được hiểu là tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu tài sản (quyền chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt theo quy định của Bộ luật Dân sự), các tranh chấp không liên quan đến quyền sở hữu tài sản thì không có căn cứ để hoãn thi hành án.
Hướng dẫn như trên là hoàn toàn hợp lý, nhằm hạn chế tối đa việc đương sự cố tình tạo ra các tranh chấp giả tạo để kéo dài, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Tuy nhiên, hiện nay, Điều 48 và Điều 75 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014. Do vậy, đa số quan điểm cho rằng, cần có một văn bản hướng dẫn mới về việc thực hiện khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự theo hướng thu hẹp nội dung tranh chấp như tinh thần của văn bản hướng dẫn nêu trên. Mặt khác, nên chăng cần xem xét đưa nội dung này vào trong một văn bản pháp lý cao hơn để thuận lợi hơn trong việc áp dụng pháp luật.
Bên cạnh đó, cần quy định cụ thể tranh chấp ở giai đoạn nào thì hoãn thi hành án theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự. Bởi vì, việc không khống chế thời điểm được khởi kiện dẫn đến rất nhiều hệ lụy khác nhau, phần nào gây khó khăn cho quá trình tổ chức thi hành án. Đa số quan điểm cho rằng, nếu hết giai đoạn được hưởng quyền khởi kiện (30 ngày kể từ ngày được thông báo mà đương sự không khởi kiện tại Tòa án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết) thì không được hoãn thi hành án cho dù có tranh chấp được tòa án thụ lý.
2. Yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án
Về vấn đề này, thực tiễn triển khai quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự còn có một số tồn tại như sau:
Thứ nhất, khi nào thì được cho là “có căn cứ xác định giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án”?
Hiện nay, chưa có một văn bản pháp luật nào hướng dẫn trường hợp nào là có căn cứ cho rằng giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án nên sẽ gây khó khăn cho chấp hành viên khi áp dụng quy định này trên thực tế.
Theo quy định tại mục 1 khoản 11 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự[1] thì:
“Trường hợp tài sản đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà phát sinh các giao dịch liên quan đến tài sản đó thì tài sản đó bị kê biên, xử lý để thi hành án. Chấp hành viên có văn bản yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đối với tài sản đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đối với tài sản đó.
Trường hợp có giao dịch về tài sản mà người phải thi hành án không sử dụng toàn bộ khoản tiền thu được từ giao dịch đó để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc có tài sản khác nhưng không đủ để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án thì xử lý như sau:
a) Trường hợp có giao dịch về tài sản nhưng chưa hoàn thành việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng thì chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo quy định. Khi kê biên tài sản, nếu có tranh chấp thì chấp hành viên thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự, trường hợp cần tuyên bố giao dịch vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự.
Trường hợp có giao dịch về tài sản kể từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng đã hoàn thành việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng thì chấp hành viên không kê biên tài sản mà thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự và có văn bản thông báo cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để phối hợp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản.
Việc xử lý tài sản được thực hiện theo quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền…”[2].
Về việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất và tài sản trên đất, Công văn số 1103/TCTHADS-NV1 ngày 30/3/2017 của Tổng cục Thi hành án dân sự về việc hướng dẫn một số vấn đề nghiệp vụ thi hành án dân sự trong đó có hướng dẫn thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất và tài sản trên đất để thực hiện việc kê biên đảm bảo việc thi hành án như sau:
“Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013 đã có những thay đổi về xác định thời điểm chuyển giao quyền sử dụng đất, nên cần phân biệt hai thời điểm cụ thể như sau:
- Thời điểm trước khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực (trước ngày 01/7/2014): Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003 và điểm c tiết 2.13 Mục 2 Phần III Thông tư số 09/2007/TT-BTNMT ngày 02/8/2007 của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn việc lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính thì thời điểm chuyển giao quyền sử dụng đất được xác định tại thời điểm có hiệu lực của các hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất (hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê, thuê lại quyền sử dụng đất; hợp đồng hoặc văn bản tặng cho quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất) được thực hiện trước ngày 01/7/2014 là thời điểm thực hiện đăng ký biến động tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất được xác định theo thời điểm (giờ, phút, ngày, tháng, năm) tiếp nhận hồ sơ hợp lệ.
- Thời điểm Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực (từ ngày 01/7/2014 đến nay).
Theo quy định tại khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 thì thời điểm thực hiện đăng ký biến động tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất được xác định kể từ thời điểm đăng ký vào Sổ địa chính, cụ thể là: “Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính”.
Như vậy, tùy từng trường hợp cụ thể, cơ quan THADS phải căn cứ quy định của pháp luật tại hai thời điểm trước, sau ngày 01/7/2014 để xác định thời điểm chuyển giao quyền sử dụng đất để làm căn cứ tổ chức thi hành án”.
Theo đó, khi xử lý tài sản là quyền sử dụng đất của người phải thi hành án đã chuyển nhượng cho người khác, chấp hành viên phải căn cứ vào thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để xử lý chứ không phải thời điểm ký hợp đồng.
Tuy nhiên, đối với quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự, vẫn cần có quy định hướng dẫn cụ thể về những trường hợp “có căn cứ xác định giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án” để thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật.
Thứ hai, về việc khởi kiện của chấp hành viên, ngoài quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự về quyền khởi kiện của chấp hành viên, thì tại khoản 5 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về đương sự trong vụ việc dân sự là: “Người yêu cầu giải quyết việc dân sự là người yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý làm căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của mình hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác”. Tại khoản 1 Điều 362 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng quy định: “Người yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự phải gửi đơn đến Tòa án có thẩm quyền quy định tại Mục 2 Chương III của Bộ luật này. Trường hợp chấp hành viên yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự theo quy định của Luật Thi hành án dân sự thì có quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”.
Như vậy, có thể thấy, hiện nay, việc khởi kiện, yêu cầu giải quyết đối với tài sản thi hành án của đương sự và chấp hành viên đã được pháp luật về thi hành án dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định khá rõ ràng. Tuy nhiên, đa số quan điểm cho rằng, quy định “hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu thì chấp hành viên yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đó” là chưa thực sự hợp lý, bởi vì:
- Việc yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch bị tranh chấp về bản chất là để đảm bảo quyền lợi cho người được thi hành án, do đó, người được thi hành án phải có trách nhiệm thực hiện việc yêu cầu khởi kiện này.
- Chấp hành viên là công chức, có chức năng, nhiệm vụ tổ chức thi hành bản án, quyết định và các công việc phụ trợ khác nhằm mục đích tổ chức thi hành án (như tổ chức bán đấu giá tài sản, tư vấn cho đương sự để họ thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ thi hành án...). Việc thực hiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch bị tranh chấp theo thủ tục tố tụng dân sự có thể dẫn đến nhiều hệ lụy khác phát sinh liên quan như: Tư cách tham gia tố tụng; trách nhiệm có liên quan trong trường hợp bản án, quyết định giải quyết tiếp theo ở các giai đoạn phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; thời gian tham gia tố tụng…
Mặt khác, quy định ấn định “sau 15 ngày mà người được thi hành án không yêu cầu thì chấp hành viên yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đó” đã biến việc yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu trở thành nghĩa vụ của chấp hành viên; trong một số trường hợp có thể sẽ tạo ra tâm lý ỷ lại của người được thi hành án để dành việc yêu cầu, khởi kiện cho chấp hành viên thực hiện. Do đó, cần sửa đổi quy định trên theo hướng: Trong trường hợp thấy cần thiết, chấp hành viên có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đó.
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, Hà Nội
Hồ Quân Chính
Học viện Tư pháp