Thứ năm 19/06/2025 12:46
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hỗ trợ kinh phí cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam

Theo Báo cáo Nghiên cứu tình hình thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật tại Việt Nam năm 2016 của Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam, có 61,2% người khuyết tật tham gia nghiên cứu trả lời về việc gặp khó khăn trong tiếp cận cơ sở vật chất tại nơi làm việc; 59,9% người gặp khó khăn khi tiếp cận phương tiện giao thông công cộng; 51,9% người gặp khó khăn khi tiếp cận các công trình công cộng.

1. Đặt vấn đề

Trong tiến trình phát triển bền vững của xã hội loài người, thực thi nhân quyền là một trong những vấn đề quan trọng và cấp thiết mà Nhà nước phải hướng đến. Đặc biệt, việc bảo vệ quyền của nhóm yếu thế trong xã hội là người khuyết tật cần phải được đề cao, vấn đề này cũng là một trong những tiêu chí cốt lõi để đánh giá sự phát triển bền vững của Việt Nam.

Theo Tổ chức Y tế thế giới, năm 2021, ước tính có khoảng 1,3 tỷ người, chiếm 16% dân số thế giới bị khuyết tật nghiêm trọng. Dự báo con số này sẽ tăng lên do sự gia tăng những căn bệnh không lây nhiễm và sự già hóa dân số[1]. Riêng tại Việt Nam, theo kết quả điều tra quy mô lớn đầu tiên tại Việt Nam năm 2016 thì kết quả điều tra hộ gia đình cho thấy 7,06% dân số từ 02 tuổi trở lên là người khuyết tật[2]. Như vậy, người khuyết tật chiếm tỷ lệ rất lớn trong xã hội, họ là nhóm yếu thế rất dễ bị tổn thương nên cần được quan tâm, hỗ trợ từ mọi nguồn lực để xóa bỏ sự mặc cảm, kỳ thị.

Trên thực tế, có rất ít công trình công cộng phục vụ cho việc đi lại của người khuyết tật được xây dựng bảo đảm tính tiếp cận. Theo Báo cáo Nghiên cứu tình hình thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật tại Việt Nam năm 2016 của Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam, có 61,2% người khuyết tật tham gia nghiên cứu trả lời về việc gặp khó khăn trong tiếp cận cơ sở vật chất tại nơi làm việc; 59,9% người gặp khó khăn khi tiếp cận phương tiện giao thông công cộng; 51,9% người gặp khó khăn khi tiếp cận các công trình công cộng. Theo số liệu thống kê của Bộ Xây dựng cũng được cung cấp trong Báo cáo trên, Việt Nam mới chỉ có 20,8% số công trình giáo dục; 11,3% trung tâm hội nghị, trụ sở cơ quan; 3,8% nhà thi đấu, bưu điện, nhà ga, cửa khẩu bảo đảm tiếp cận đối với người khuyết tật. Với thực trạng như vậy, tính đến thời điểm hiện tại đều chưa thể đáp ứng yêu cầu về lộ trình quy định tại Điều 40 Luật Người khuyết tật năm 2010 là đến năm 2020, các công trình công cộng (như trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước; nhà ga, bến xe, bến tàu; cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở giáo dục, dạy nghề; công trình văn hóa, thể dục, thể thao) phải bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật.

Chúng ta phải thừa nhận rằng, việc sử dụng người lao động khuyết tật cũng gây nhiều khó khăn cho phía người sử dụng lao động (NSDLĐ). Bên cạnh khó khăn trong việc quản lý, điều hành người lao động khuyết tật thì cũng cần đầu tư nhiều chi phí để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho người khuyết tật theo quy định của pháp luật, mà có thể năng suất lao động thấp. Đa số trường hợp sử dụng lao động khuyết tật thông thường mang tính chất nhân đạo nhiều hơn dựa trên nhu cầu của NSDLĐ. Vì vậy, việc Nhà nước có biện pháp hỗ trợ phù hợp để kích thích, tạo động lực cho NSDLĐ thuê mướn người lao động khuyết tật tham gia lao động là rất cấp thiết, giảm thiểu gánh nặng tài chính cho NSDLĐ, tạo điều kiện cho người lao động khuyết tật tìm kiếm việc làm, tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình, góp phần giảm thiểu sự mặc cảm, áp lực tâm lý của người lao động khuyết tật, cao hơn nữa là góp phần phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam bền vững.

Tuy nhiên, những ưu đãi của Nhà nước đối với người lao động khuyết tật hiện nay còn nhiều vấn đề chưa phù hợp, đặc biệt là ưu đãi hỗ trợ kinh phí cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật còn chưa đồng bộ, chồng chéo, thiếu sót nên việc triển khai trên thực tế gặp không ít khó khăn. Trong bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu quy định pháp luật Việt Nam về ưu đãi thuế và khó khăn trong việc triển khai các quy định này trong thực tiễn, từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện.

2. Quy định pháp luật về hỗ trợ kinh phí cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật và một số kiến nghị

Người khuyết tật là những người có những khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần nên gặp khó khăn trong lao động, sinh hoạt, học tập. Khoản 3 Điều 33 Luật Người khuyết tật năm 2010 quy định: “Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết tật tùy theo điều kiện cụ thể bố trí sắp xếp công việc, bảo đảm điều kiện và môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật”. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho người khuyết tật có thể thuận tiện trong công việc, sinh hoạt cá nhân. Người khuyết tật là đối tượng đặc thù nên cần có những điều kiện, môi trường làm việc khác biệt so với những lao động không khuyết tật.

Trên thực tế, do sự hạn chế trong các hoạt động nên việc tiếp cận việc làm của người khuyết tật đang gặp rất nhiều khó khăn vì nhà tuyển dụng “e ngại” tuyển dụng người khuyết tật. Nguyên nhân có thể là kỳ thị, năng suất lao động thấp, đặc biệt là phải tốn thêm chi phí để xây dựng môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật theo quy định của pháp luật. Vì vậy, để thúc đẩy NSDLĐ thuê mướn người lao động khuyết tật để tham gia sản xuất, kinh doanh, Nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách ưu đãi, trong đó có ưu đãi hỗ trợ kinh phí cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật. Giải pháp này vừa giúp NSDLĐ giảm gánh nặng tài chính khi xây dựng cơ sở vật chất đủ điều kiện luật định, vừa xây dựng môi trường làm việc hòa nhập cho người khuyết tật để giúp họ có việc làm bền vững, có thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình.

2.1. Điều kiện được hỗ trợ

Có hai nhóm chủ thể trong hai trường hợp sau sẽ được hỗ trợ kinh phí cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật:

Trường hợp 1: Cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật[3]. Trong đó, hiểu thế nào là “cơ sở sản xuất, kinh doanh” chúng ta cần viện dẫn đến khoản 1 Điều 3 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015: “Cơ sở sản xuất, kinh doanh là doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình và các tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh”. Có thể thấy, chủ thể được hưởng kinh phí hỗ trợ rất rộng thuộc các thành phần kinh tế với điều kiện phải thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đối với chủ thể thuê mướn người lao động khuyết tật thực hiện sản xuất tự cung, tự cấp sẽ không thuộc đối tượng được hỗ trợ kinh phí. Cách tính tỷ lệ người lao động khuyết tật trên tổng số lao động được áp dụng theo khoản 1 Điều 2 Thông tư số 26/2012/TT-BLĐTBXH ngày 12/11/2012 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn một số điều của Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người khuyết tật (Thông tư số 26/2012/TT-BLĐTBXH).

Trường hợp 2: Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng từ 10 người khuyết
tật vào làm việc ổn định sẽ được hỗ trợ kinh phí cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật[4]. Từ quy định này có hai vấn đề pháp lý đặt ra:

Một là, sử dụng người khuyết tật vào “làm việc ổn định”, vậy thế nào là “làm việc ổn đinh” hiện nay vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn thi hành. Điều này tạo ra hoang mang cho chủ thể sử dụng lao động người khuyết tật là thuê mướn bao lâu sẽ được hưởng ưu đãi? Đối với cơ quan quản lý nhà nước cũng sẽ gặp khó khăn, lúng túng khi xem xét hỗ trợ.

Từ đó, tác giả kiến nghị, cần có hướng dẫn thống nhất cách xác định thế nào là “làm việc ổn định”. Theo tác giả thì có thể tham khảo đến quy định về loại hợp đồng lao động trong Bộ luật Lao động năm 2012 (gồm 03 loại) và Bộ luật Lao động năm 2019 (gồm 02 loại). Làm việc ổn định có thể hiểu là người lao động được ký hợp đồng lao động làm những công việc có tính chất thường xuyên, lâu dài. Tham khảo tinh thần quy định của Bộ luật Lao động năm 2012 về loại hợp đồng xác định thời hạn từ 12 tháng trở lên hoặc loại hợp đồng không xác định thời hạn thì giữa người lao động và người sử dụng lao động đã cam kết làm việc ổn định, lâu dài. Tác giả ủng hộ giải thích pháp luật theo hướng là xác định điều kiện “làm việc ổn định” là giữa 02 bên đã ký kết loại hợp đồng lao động không xác định thời hạn hay loại hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 12 tháng trở lên.

Hai là, trong quy định trên chưa rõ ràng về chủ thể là “hợp tác xã, hộ gia đình” có được hỗ trợ hay không? Vì theo pháp luật hiện hành, hai chủ thể này không được xem là loại hình doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là, nếu hợp tác xã và hộ gia đình sử dụng trên 10 lao động là người khuyết tật nhưng lại chưa đủ 30% tổng số lao động thì có được hỗ trợ kinh phí này hay không? Tác giả cho rằng, hợp tác xã, hộ gia đình có thể được hiểu là một loại tổ chức sử dụng từ 10 người khuyết tật.

2.2. Mức hỗ trợ và hình thức hỗ trợ

Điểm a khoản 1 Điều 9 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người khuyết tật quy định: Mức hỗ trợ theo tỷ lệ người khuyết tật làm việc ổn định tại cơ sở sản xuất, kinh doanh, mức độ khuyết tật của người lao động và quy mô của cơ sở sản xuất, kinh doanh theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định mức kinh phí hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi trường làm việc cho cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật.

Pháp luật hiện hành không ấn định mức hỗ trợ cụ thể đối với người sử dụng lao động khuyết tật mà việc hỗ trợ sẽ được đánh giá dựa trên nhiều yếu tố như: Tỷ lệ sử dụng lao động khuyết tật (tính theo Thông tư số 26/2012/TT-BLĐTBXH), mức độ khuyết tật dựa vào giấy xác nhận khuyết tật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, quy mô của cơ sở sản xuất (lớn, vừa, nhỏ). Từ những yếu tố trên cùng với tình hình kinh tế - xã hội tại địa phương thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi cơ sở sản xuất, kinh doanh hoạt động quyết định mức hỗ trợ cho người sử dụng lao động khuyết tật đủ điều kiện trên.

Đối với việc hỗ trợ cho trường hợp cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng từ 10 người khuyết tật làm việc thì Thông tư số 26/2012/TT-BLĐTBXH chưa quy định về điều kiện, mức hỗ trợ, trình tự, thủ tục để được hỗ trợ. Theo nghiên cứu của tác giả thì cũng chưa có văn bản nào khác quy định để tháo gỡ vấn đề này, đây là một khoảng trống pháp luật cần có hướng dẫn thi hành.

Tuy nhiên, việc tiếp cận chính sách về hỗ trợ cho cơ sở sản xuất, kinh doanh cải thiện điều kiện và môi trường làm việc cho người khuyết tật (bao gồm cải thiện khả năng tiếp cận cho nhân viên khuyết tật) trong thực tiễn còn rất khó khăn. Nguyên nhân là do quy định này vẫn chưa được hướng dẫn chi tiết về danh mục, tiêu chí xác định và mức hỗ trợ. Báo cáo về tình hình việc làm của người khuyết tật tại 08 tỉnh ở Việt Nam cho thấy, chưa có cơ sở sản xuất, kinh doanh nào tiếp cận được với chính sách hỗ trợ này[5].

2.3. Hỗ trợ tư vấn doanh nghiệp thiết lập môi trường làm việc hòa nhập

Khoản 3 Điều 33 Luật Người khuyết tật hiện hành quy định “Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết tật tùy theo điều kiện cụ thể bố trí sắp xếp công việc, bảo đảm điều kiện và môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật”. Tuy nhiên, tiêu chí để xác định như thế nào là môi trường làm việc “phù hợp” thì chưa có văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành.

Nhiều doanh nghiệp quan tâm đến việc sử dụng người khuyết tật lại thiếu hiểu biết về cách thức để thiết lập một môi trường làm việc hòa nhập và vì vậy thường bỏ qua việc đầu tư về môi trường làm việc do e ngại về chi phí tài chính cho những sự thay đổi đó. Mặt khác, đối với từng loại khuyết tật khác nhau thì người khuyết tật cũng sẽ cần đáp ứng những nhu cầu về công cụ lao động phù hợp, lối đi, chỗ ngồi… nhưng làm thế nào để “phù hợp” thì pháp luật cũng chưa có tiêu chí, tiêu chuẩn để đánh giá. Do vậy, người khuyết tật đã và đang gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận điều kiện và môi trường làm việc. Theo Báo cáo nghiên cứu tình hình thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật tại Việt Nam năm 2016 của Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam, có tới 61,2% người khuyết tật tham gia nghiên cứu trả lời rằng họ gặp khó khăn về tiếp cận cơ sở vật chất tại nơi làm việc, 59,9% người gặp khó khăn khi tiếp cận phương tiện giao thông công cộng, 51,9% người gặp khó khăn khi tiếp cận các công trình công cộng[6]. Vì vậy, bên cạnh việc “hỗ trợ kinh phí cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật”, tác giả cho rằng, Nhà nước cần thành lập một tổ chức tư vấn, thiết kế miễn phí để hỗ trợ doanh nghiệp sử dụng người khuyết tật xây dựng được môi trường làm việc hòa nhập nhằm tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động của người khuyết tật. Điều này cũng khuyến khích NSDLĐ mạnh dạn hơn trong tuyển dụng người khuyết tật làm việc.

Nguyễn Thị Hồng Vân

Đại học Đồng Tháp


[1] WHO, 2022, Global report on health equity for persons with disabilities, https://www.who.int/publications/i/item/9789240063600.

[2] Tổng cục Thống kê Việt Nam (2016), Điều tra quốc gia về người khuyết tật 2016, tr. 15.

[3] Điểm a khoản 1 Điều 9 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP.

[4] Điều 10 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP.

[5] Ủy ban Quốc gia về người khuyết tật Việt Nam (2018), Báo cáo nghiên cứu, đánh giá thực hiện các quy định của Bộ luật Lao động và các văn bản liên quan đến lao động là người khuyết tật, tr. 32.

[6] Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam (2016), Báo cáo nghiên cứu tình hình thực hiện Công ước của Liên Hợp quốc về quyền của người khuyết tật tại Việt Nam, Hà Nội, tr. 21.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm