So với các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa là lĩnh vực đặc thù, nhạy cảm, tinh tế, liên quan trực tiếp đến quá trình sáng tạo của cá nhân và cộng đồng. Cùng với quá trình đổi mới tư duy, nhận thức về văn hóa, đặc biệt là nhận thức về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và việc xây dựng, hình thành nhân cách con người, hệ thống cơ chế, chính sách pháp luật về văn hóa nói chung và các lĩnh vực cụ thể của văn hóa nói riêng dần được hoàn thiện, đáp ứng tốt yêu cầu thực tiễn và nhu cầu, đòi hỏi của người dân, có thể kể đến một số đạo luật tiêu biểu trong lĩnh vực văn hóa như:
Chính sách, pháp luật về di sản văn hóa: Di sản văn hóa là tài sản vô giá do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo trong quá trình dựng nước và giữ nước; là sợi dây gắn kết cộng đồng dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa; là nền tảng để hun đúc nên bản sắc văn hóa và hệ giá trị của văn hóa dân tộc, là một nguồn lực cho phát triển. Ý thức rõ về tầm quan trọng của di sản văn hóa, nhằm bảo tồn, phát huy giá trị của di sản trước những tác động của nhân tố chủ quan và khách quan, văn bản đầu tiên mang tính pháp lý về bảo tồn, phát huy di sản văn hóa là Sắc lệnh số 65 ngày 23/11/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa về việc bảo tồn cổ tích trong công cuộc kiến thiết nước nhà. Trong đó tại điều thứ tư, Sắc lệnh quy định: “Cấm phá hủy những đình chùa, đền, miếu hoặc những nơi thờ tự khác, những cung điện, thành, quách cùng lăng mộ chưa được bảo tồn. Cấm phá hủy những bi ký, đồ vật, chiểu sắc, văn bằng, giấy má, sách vở có tính sách tôn giao hay không, nhưng có ích cho lịch sử mà chưa được bảo tồn”4.
Để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, đáp ứng nhu cầu về văn hóa ngày càng cao của nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và đóng góp vào kho tàng di sản văn hóa thế giới; để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, năm 2001, Quốc hội đã ban hành Luật Di sản văn hóa. Luật gồm 04 chương, 74 điều quy định về quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với di sản văn hóa. Tiếp đó, nhằm thích ứng với bối cảnh thời đại và những nhận thức mới về di sản văn hóa, nhất là di sản văn hóa phi vật thể, năm 2009, Quốc hội khóa XII đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa, trong đó, sửa đổi 20 điều (bổ sung mới 05 khoản trong Điều 4, Điều 33 và Điều 36). Cùng với hệ thống luật còn có các văn bản dưới luật do Chính phủ ban hành như Nghị định số 86/2005/NĐ-CP ngày 08/7/2005 về quản lý và bảo vệ di sản văn hóa dưới nước, Nghị định số 109/2017/NĐ-CP ngày 21/9/2017 quy định về bảo vệ và quản lý di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam...; bên cạnh đó là hệ thống các chính sách về đầu tư, hỗ trợ nguồn lực trong việc kiểm kê, sưu tầm, bảo quản và trùng tu hệ thống di sản văn hóa, nhất là di sản văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số cũng đã được Chính phủ ban hành, thể hiện qua các chương trình, đề án, chiến lược, chương trình cụ thể như: Đề án bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020; Đề án kiểm kê, sưu tầm, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền di sản văn hóa truyền thống điển hình của các dân tộc thiểu số Việt Nam giai đoạn 2017 - 2020; Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn 2012 - 2015; Chương trình mục tiêu phát triển văn hóa giai đoạn 2016 - 2020... Như vậy, với hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật về di sản văn hóa ngày càng được hoàn thiện đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc nhận diện, lan tỏa giá trị vô giá của di sản. Theo thống kê của ngành văn hóa, tính đến tháng 12/2020, cả nước có 180 bảo tàng (04 bảo tàng quốc gia, 07 bảo tàng chuyên ngành thuộc các bộ ngành, 36 bảo tàng chuyên ngành thuộc các đơn vị của bộ ngành và tương đương, 81 bảo tàng cấp tỉnh và 52 bảo tàng ngoài công lập); gần 4.000.0000 hiện vật có trong các bảo tàng; 3.560 di tích quốc gia (trong đó có 1.758 di tích lịch sử; 1.530 di tích kiến trúc nghệ thuật, 99 di tích khảo cổ, 73 di tích danh lam thắng cảnh); 119 di tích quốc gia đặc biệt; 215 bảo vật quốc gia; 364 di sản văn hoá phi vật thể được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; 28 di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được UNESCO ghi danh (trong đó có 08 di sản văn hóa và thiên nhiên, 13 di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, 07 di sản tư liệu thế giới và Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương)5. Nguồn trữ lượng di sản văn hóa phong phú nói lên truyền thống lịch sử - văn hóa lâu đời và sức sáng tạo bền bỉ của dân tộc Việt Nam. Đây cũng là nguồn tài nguyên vô giá góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
Chính sách, pháp luật về nghệ thuật: Nghệ thuật là một trong những lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm, tinh tế của văn hóa, liên quan trực tiếp đến những sáng tạo của cá nhân. Những sản phẩm nghệ thuật có tác động lớn đến việc giáo dục, hình thành nhân cách con người. Trong nghệ thuật bao gồm nhiều loại hình như: Văn chương, kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc, nhiếp ảnh, điện ảnh, sân khấu. Nhằm tạo điều kiện cho các loại hình nghệ thuật phát triển, đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ trong sáng tác, trình diễn nghệ thuật, Việt Nam sớm tham gia các công ước quốc tế liên quan đến sáng tạo nghệ thuật như Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật, Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng. Đồng thời, ban hành những đạo luật về bảo hộ quyền tác giả và các quyền liên quan đến tác giả như Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Điện ảnh. Như vậy, trong số các loại hình nghệ thuật thì điện ảnh có luật riêng bởi đây là loại hình nghệ thuật tổng hợp, có khả năng tương tác lớn không chỉ trong phạm vi trong nước mà còn ở phạm vi khu vực và quốc tế.
Bên cạnh hệ thống luật thì các thông tư, nghị định, quy định của Chính phủ liên quan đến lĩnh vực nghệ thuật cũng được ban hành nhằm ghi nhận, đánh giá và tôn vinh những đóng góp xuất sắc của các nhân, tổ chức đối với sự phát triển của nền nghệ thuật nước nhà. Tiêu biểu có thể kể đến các văn bản như: Nghị định số 251-CP ngày 12/6/1981 của Hội đồng Chính phủ về giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước; Pháp lệnh số 16/LCT/HĐNN ngày 04/6/1985 của Hội đồng Nhà nước quy định giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước; Nghị định số 90/2014/NĐ-CP ngày 29/9/2014 của Chính phủ về “Giải thưởng Hồ Chí Minh”, “Giải thưởng Nhà nước” về văn học nghệ thuật (sửa đổi, bổ sung năm 2018 theo Nghị định số 133/2018/NĐ-CP ngày 01/10/2018 của Chính phủ); Nghị định số 89/2014/NĐ-CP ngày 29/9/2014 của Chính phủ quy định về xét tặng danh hiệu “Nghệ sĩ nhân dân”, “Nghệ sĩ ưu tú”; Nghị định số 144/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định về hoạt động nghệ thuật biểu diễn...
Chính sách, pháp luật về du lịch và văn hóa tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo: Đây là những lĩnh vực quan trọng của đời sống văn hóa. Với trữ lượng nguồn tài nguyên văn hóa dồi dào, bản sắc độc đáo, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh phát triển ngành công nghiệp không khói - du lịch. Để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch phát triển, Luật Du lịch đã được Quốc hội khóa XIV thông qua gồm 09 chương, 78 điều quy định về tài nguyên du lịch, phát triển sản phẩm du lịch và hoạt động du lịch; quyền, nghĩa vụ của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, cộng đồng dân cư có hoạt động liên quan đến du lịch; quản lý nhà nước về du lịch. Bên cạnh đó, để cụ thể hóa nghị quyết của Đảng về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn (Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII), Chính phủ cũng ban hành nhiều chính sách quan trọng, tạo nguồn lực để phát triển du lịch, như: Nghị quyết số 92/NQ-CP ngày 08/12/2014 của Chính phủ về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới; Quyết định số 1861/QĐ-TTg ngày 23/11/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Chương trình mục tiêu phát triển hạ tầng du lịch giai đoạn 2016 - 2020, Quyết định số 49/2018/QĐ-TTg ngày 12/12/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động của quỹ hỗ trợ phát triển du lịch; Quyết định số 1685/QĐ-TTg ngày 05/12/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án cơ cấu lại ngành du lịch đáp ứng yêu cầu phát triển ngành thành ngành kinh tế mũi nhọn; Quyết định số 1671/QĐ-TTg ngày 30/11/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổng thể ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực du lịch giai đoạn 2018 - 2020 và định hướng đến năm 2025; Quyết định số 147/QĐ-TTg ngày 22/01/2020 của Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030; Nghị định số 45/2019/NĐ-CP ngày 21/5/2019 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch...
Cùng với hoạt động du lịch, các hoạt động liên quan đến đời sống tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo của người dân cũng luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm với việc ban hành nhiều chính sách, quy định nhằm đảm bảo cho các hoạt động diễn ra an toàn, thuận lợi, phù hợp với thuần phong mỹ tục và truyền thống văn hóa dân tộc. Thời gian qua, nhiều văn bản quy định, hướng dẫn tổ chức thực hiện các hoạt động trên đã được ban hành và có tác động lớn đến nhận thức, hành động của nhân dân như: Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, Nghị định số 110/2018/NĐ-CP ngày 29/8/2018 của Chính phủ quy định về quản lý và tổ chức lễ hội; Chỉ thị số 14/1998/CT-TTg ngày 28/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội; Quyết định số 308/2005/QĐ-TTg ngày 25/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội; Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 09/2/2018 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang... Sự ra đời kịp thời của những chính sách trên đã góp phần làm cho đời sống văn hóa tinh thần của người dân thêm lành mạnh, phong phú.
Chính sách, pháp luật về báo chí, xuất bản, quảng cáo, thư viện, thể dục thể thao: Đây là những lĩnh vực có sự giao thoa với nhiều ngành, đặc biệt là ngành thông tin, truyền thông trong việc giới thiệu, quảng bá những sản phẩm văn hóa đến với đông đảo quần chúng nhân dân nhằm nâng cao trình độ nhận thức, sự hiểu biết, nhu cầu tiếp cận thông tin cũng như nâng cao sức khỏe, thể trạng của mỗi cá nhân. Về những chính sách pháp luật cụ thể, có thể thấy thời gian qua nhiều đạo luật, chính sách về báo chí, xuất bản, quảng cáo, thư viện, thể dục thể thao đã được ban hành, tiêu biểu như: Luật Báo chí; Luật Xuất bản; Luật Thể dục, thể thao; Luật Quảng cáo; Luật Thư viện. Bên cạnh đó là các chính sách, chiến lược của Chính phủ như: Quyết định số 2198/QĐ-TTg ngày 03/12/ 2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển thể dục, thể thao đến năm 2020, Quyết định số 115/QĐ-TTg ngày 16/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển xuất bản, in, phát hành xuất bản phẩm đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Quyết định số 581/QĐ-TTg, ngày 06/5/2009 của Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020, Quyết định số 329/QĐ-TTg ngày 15/3/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng 2030; Quyết định số 362/QĐ-TTg ngày 03/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025; Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa; Nghị định số 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo…
Có thể nói, cùng với sự phát triển của đời sống xã hội và nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân, hệ thống chính sách pháp luật về văn hóa ngày càng được bổ sung, hoàn thiện, đáp ứng tốt những đòi hỏi mà thực tiễn đặt ra, góp phần duy trì trật tự, ổn định xã hội và sự phát triển, hoàn thiện nhân cách con người.
2. Những thách thức đang đặt ra
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì công tác xây dựng và ban hành chính sách pháp luật về văn hóa cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Nhận định về thực trạng này, Đảng, Nhà nước thẳng thắn chỉ rõ: “Việc xây dựng thể chế văn hóa còn chậm và nhiều thiếu sót. Chính sách xã hội hóa các hoạt động văn hóa chậm được ban hành. Bộ máy tổ chức ngành văn hóa chưa được sắp xếp hợp lý để phát huy cao hơn hiệu lực lãnh đạo và quản lý”5, “các văn bản pháp luật về văn hóa còn thiếu đồng bộ; việc thể chế hóa các nghị quyết, quan điểm của Đảng còn chậm, tổ chức thực hiện còn yếu nên nhiều quy phạm pháp luật về văn hóa chưa thực sự đi vào cuộc sống. Một số lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật chưa có luật để quản lý. Nhiều chính sách đối với văn nghệ sĩ đã lạc hậu nhưng chậm được sửa đổi”6. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên có nhiều, song chủ yếu là do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, văn hóa là lĩnh vực đặc thù, nhạy cảm, tinh tế với những sáng tạo của cá nhân và cộng đồng, thiên về phương diện tinh thần, liên quan trực tiếp đến đời sống văn hóa tâm linh, tín ngưỡng nên đôi khi khó nhận diện, đánh giá chính xác. Thậm chí một số sáng tạo trong văn hóa có khuynh hướng vượt ra khỏi khuôn khổ, phạm vi quy định của những chính sách, vì thế việc đánh giá, tổng kết thực tiễn để ban hành chủ trương, chính sách mới về văn hóa gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai, việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay có nhiều điều kiện thuận lợi với việc kế thừa những thành tựu của các nước đi trước. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng gặp nhiều khó khăn từ những rào cản, thói quen cũ. Tâm lý “phép vua thua lệ làng”, “một bồ cái lý không bằng một tí cái tình” vẫn còn ăn sâu trong nhận thức, nếp nghĩ và hành động của nhiều người dân. Đối với việc xây dựng, hoàn thiện chính sách pháp luật về văn hóa cũng vậy, việc tiếp cận hệ thống văn bản chính sách pháp luật hiện có của người dân chưa đồng đều, người dân vẫn ứng xử, thực hành văn hóa theo thói quen, mạnh ai đấy làm. Đặc biệt đối với đồng bào dân tộc thiểu số, những tập tục, hủ tục lạc hậu vẫn còn đè nặng lên cuộc sống của họ khiến cho việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức, ý thức tuân thủ pháp luật cho người dân còn gặp nhiều trở ngại.
Thứ ba, trong văn hóa có nhiều lĩnh vực nhạy cảm liên quan đến phong tục, tín ngưỡng, niềm tin dân gian của người dân, ranh giới giữa nét đẹp truyền thống văn hóa với mê tín dị đoan, lợi dụng văn hóa để trục lợi, thương mại hóa đôi khi không rõ ràng. Việc áp dụng chính sách, pháp luật trong xử lý hành vi vi phạm trong lĩnh vực văn hóa đôi lúc chưa nghiêm do những tác động của tâm lý cộng đồng, văn hóa vùng miền. Vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, bỏ qua, nếu xử phạt thì cũng chậm, lúng túng do tâm lý ngại va chạm, xung đột của người quản lý trước sức mạnh của “tâm lý đám đông”.
Thứ tư, văn hóa là lĩnh vực đa ngành, liên ngành, thẩm thấu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì thế việc thực thi chính sách pháp luật về văn hóa cần có sự phối hợp của các ban, ngành. Tuy nhiên thời gian qua, việc phối hợp chưa thực sự nhịp nhàng, vẫn còn tình trạng “đánh trống bỏ rùi”, đùn đẩy trách nhiệm. Đây cũng là một trong nhiều nguyên nhân khiến cho tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống chưa được chấn chỉnh, ngăn chặn kịp thời.
Thứ năm, việc xây dựng, ban hành chính sách pháp luật về văn hóa nói chung và những vực cụ thể của văn hóa còn chậm, chưa đầy đủ, một số lĩnh vực cụ thể chưa có luật, nghị định riêng. Bên cạnh đó, một số vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn như vấn đề xuất bản điện tử; văn học mạng; thẩm định và hậu kiểm thể loại phim sản xuất và phát hành trên internet; vấn đề quản lý tư tưởng, đạo đức, lối sống; chính sách đối với nghệ nhân dân gian; vấn đề cổ phần hóa một số đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập; vấn đề xã hội hóa các hoạt động văn hóa, nghệ thuật; ứng xử văn hóa trên không gian mạng, vấn đề an ninh văn hóa, an ninh con người trong bối cảnh hội nhập toàn cầu; phát triển công nghiệp văn hóa và sự thích ứng của văn hóa truyền thống trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư... những vấn đề này còn chậm được đưa vào các đạo luật và các thông tư, nghị định, gây khó khăn cho công tác quản lý văn hóa trong điều kiện mới ở nước ta hiện nay.
3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng việc ban hành chính sách, pháp luật về văn hóa
“Hoàn chỉnh các văn bản luật pháp về văn hóa, nghệ thuật, thông tin trong điều kiện của cơ chế thị trường, ban hành các chính sách khuyến khích sáng tạo văn hóa và nâng mức đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân”7 là một trong nhiệm vụ quan trọng được Đảng đề ra để đẩy nhanh sự phát triển của văn hóa cũng như mang lại cơ hội, điều kiện tốt nhất cho người dân trong sáng tạo, hưởng thụ và thực hành văn hóa. Để làm tốt nhiệm vụ trên cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó tập trung vào một số giải pháp cơ bản như:
Một là, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về vai trò của hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật văn hóa trong việc đảm bảo quyền con người trong tiếp cận thụ hưởng những giá trị, thành quả của văn hóa. Cơ chế, chính sách pháp luật không chỉ đảm bảo trật tự, an toàn, phát triển lĩnh vực văn hóa mà còn góp phần hình thành tư tưởng, phẩm chất, thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của mỗi người, giúp mỗi cá nhân có điều kiện phát triển một cách toàn diện. Việc nâng cao nhận thức về vai trò của chính sách pháp luật sẽ giúp mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân ứng xử và thực hành văn hóa theo những chuẩn mực, quy tắc, điều lệ nhất định, tạo nếp sống văn minh, khoa học, tiến bộ.
Hai là, nâng cao trình độ, năng lực và kỹ năng quản lý của đội ngũ cán bộ văn hóa các cấp. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị văn hóa trong việc dự báo tình hình, xu hướng phát triển của văn hóa trong tương lai. Đồng thời đi sâu nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, thâm nhập vào đời sống văn hóa, nhất là văn hóa vùng miền, tộc người để tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban hành chủ trương, chính sách phát triển văn hóa một cách kịp thời, phù hợp với tình hình thực tiễn trong nước và xu thế phát triển văn hóa của các nước trên thế giới.
Để đạt được mục đích đó, mỗi cán bộ văn hóa cần không ngừng trau dồi kiến thức cơ bản về văn hóa, nâng cao năng lực ngoại ngữ, ra sức học tập, tiếp thu kinh nghiệm quản lý, điều hành và ban hành chính sách quản lý văn hóa của các nước tiên tiến.
Nhà nước cần có chính sách ưu tiên, đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực văn hóa với đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”, đủ về số lượng, nâng cao về chất lượng. Đồng thời, phát huy tinh thần chủ động sáng tạo của nhân dân cùng với chính quyền tham gia quản lý văn hóa. Phát huy tốt tinh thần nêu gương, tiên phong, gương mẫu của già làng, trưởng bản và những người có uy tín trong cộng đồng cùng tham gia quản lý, tổ chức đời sống văn hóa.
Ba là, việc xây dựng, ban hành chính sách pháp luật về văn hóa phải dựa trên nguyên tắc khách quan, công bằng, khoa học, phù hợp với tình hình thực tiễn. Tránh tình trạng lợi ích nhóm, lợi dụng chính sách để phục vụ lợi ích của một nhóm người, một tổ chức nhất định. Các điều khoản của chính sách pháp luật phải ngắn gọn, câu chữ tường minh, giản dị, dễ hiểu, dễ vận dụng và dễ triển khai trong thực tiễn. Việc xây dựng các văn bản về xử phạt hành vi vi phạm trong lĩnh vực văn hóa cần theo hướng tăng nặng khung hình phạt về hành chính, tài chính, hình sự, để giáo dục, răn đe, tránh sự nể nang, né tránh, ngại va chạm trong xử lý các tình huống, vấn đề văn hóa phức tạp.
Bốn là, trong quản lý, thực thi chính sách pháp luật về văn hóa, ngành văn hóa, thể thao và du lịch cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban, ngành như Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tư pháp và chính quyền địa phương các cấp trong việc đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật về văn hóa cho người dân. Đồng thời phối hợp tốt trong xử lý, giải quyết các vấn đề nhạy cảm về văn hóa, tôn giáo, tộc người mang tính khu vực và quốc tế nhằm duy trì trật tự, ổn định và phát triển của đời sống văn hóa, đảm bảo tốt nhất quyền văn hóa của công dân trong sáng tạo, thực hành và thụ hưởng văn hóa.
Năm là, phát huy những giá trị, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đặc biệt là những quy định, điều lệ trong các văn bản truyền miệng, các điều khoản còn có giá trị, ý nghĩa hiện thời trong hương ước, lệ làng với những chuẩn mực, quy tắc đạo đức đã được các thế hệ gìn giữ, phát huy. Khơi dậy tinh thần cộng đồng, ý thức tự quản của các làng bản, thôn xóm; kết hợp chặt chẽ giữa “quyền lực, sức mạnh mềm” từ những chuẩn mực đạo đức văn hóa truyền thống với hệ thống cơ chế, chính sách pháp luật hiện đại, giữa “lý và tình”, tạo sức mạnh tổng hợp để khơi thông những mạch nguồn văn hóa, đưa đất nước ngày càng phát triển, phồn vinh.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh