1. Tổng quan về du lịch xanh
1.1. Khái niệm
Từ những năm 1970, du lịch xanh (DLX) đã manh nha xuất hiện và dần được đề cập nhiều hơn ở châu Âu từ sau năm 1980. Theo Martin Oppermann, DLX là “một hình thức du lịch thay thế thường liên quan đến du lịch nông thôn, là hình thái của du lịch thiên nhiên, thân thiện với môi trường và hầu như không tạo ra các tác động về sinh thái tại điểm đến du lịch”[1]. Với cách tiếp cận này, DLX được sử dụng thay thế cho các khái niệm du lịch sinh thái, du lịch thiên nhiên và du lịch nông thôn nói chung. Theo Bộ Nông nghiệp Hàn Quốc, DLX là “hoạt động giải trí kiểu lưu trú để tận hưởng thiên nhiên và văn hóa của điểm đến và tương tác với cư dân địa phương ở các vùng nông thôn và miền núi có cảnh quan thiên nhiên phong phú”[2]. Cùng với các quan điểm trên, nhiều doanh nghiệp đã mở rộng phạm vi tiếp cận của DLX là “bất kỳ hoạt động du lịch nào theo cách thân thiện với môi trường đều được xem là DLX”[3]. Theo Hiệp hội Du lịch Xanh Đài Loan thì DLX là “các hoạt động du lịch nhằm giảm thiểu tác động đến môi trường, giảm thiểu việc sử dụng năng lượng và phát thải carbon, đồng thời tận hưởng sự toàn vẹn về sinh thái - nhân văn - văn hóa”[4]. Hiệp hội Du lịch Sinh thái Quốc tế (TIES), đã định nghĩa DLX/du lịch sinh thái là “du lịch có trách nhiệm đến các khu tự nhiên, bảo tồn môi trường; duy trì cuộc sống của người dân địa phương và liên quan đến giáo dục”[5]. Những hoạt động du lịch này có thể được tổ chức bởi cá nhân, công ty, tổ chức du lịch; được giáo dục về các vấn đề sinh thái.
Tại Việt Nam, GS.TS. Nguyễn Văn Đính đã nhận định “DLX là loại hình du lịch dựa vào tự nhiên và văn hóa, có giáo dục môi trường, đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, có sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương”[6]. Theo Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch Việt Nam, DLX được hiểu là du lịch dựa trên nền tảng khai thác hợp lý và hiệu quả các nguồn tài nguyên, phát triển gắn với bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, giảm phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Nhìn chung, các quan điểm tiếp cận về phát triển DLX đều tương đối giống nhau, nó đã và đang trở thành một nguyên tắc, một xu hướng chung để phát triển du lịch có trách nhiệm, bảo đảm du lịch bền vững. Hầu hết ở các nước đang phát triển, phát triển DLX được coi là giải pháp hữu hiệu để giải quyết đồng thời yêu cầu phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, hệ sinh thái bền vững.
1.2. Nguyên tắc và lợi ích phát triển du lịch xanh
Theo TIES, khi xây dựng và phát triển DLX phải bảo đảm gắn liền với các nguyên tắc sau: (i) Sử dụng hợp lý các nguồn lực tài nguyên nguyên thiên nhiên cho nhu cầu phát triển du lịch; (ii) Hạn chế tác động từ hoạt động du lịch đến môi trường tự nhiên và (iii) Ưu tiên phát triển các loại hình/sản phẩm du lịch có trách nhiệm với môi trường tự nhiên mà trọng tâm là du lịch sinh thái[7].
Tác giả Doods và Joppe, cũng cho rằng, DLX có thể được chia thành bốn cấu phần sau: (i) Trách nhiệm đối với môi trường - bảo vệ, bảo tồn và nâng cao vai trò của thiên nhiên và môi trường vật lý để đảm bảo tính bền vững lâu dài của hệ sinh thái; (ii) Khả năng phát triển lâu dài của kinh tế địa phương - hỗ trợ kinh tế địa phương, doanh nghiệp và cộng đồng để đảm bảo sự phát triển của kinh tế và tính bền vững; (iii) Tính đa dạng sinh học - trân trọng các nền văn hóa và các biểu đạt đa dạng văn hóa để đảm bảo các nền văn hóa địa phương tiếp tục phát triển thịnh vượng; (iv) Sự đa dạng về trải nghiệm - mang lại trải nghiệm phong phú và thỏa đáng thông qua sự tham gia tích cực, từng cá nhân và có ý nghĩa, và sự tham gia với tự nhiên, con người, địa điểm và văn hóa[8]. Cốt lõi để hướng đến DLX là các sản phẩm DLX. Theo đó, để được xem là sản phẩm DLX cần phải đồng thời đáp ứng các tiêu chí: (i) Được tạo ra từ các vật liệu thân thiện với môi trường; (ii) Đem đến những giải pháp an toàn đối với môi trường và sức khỏe; (iii) Giảm tác động đến môi trường trong quá trình sử dụng; (iv) Tạo ra một môi trường thân thiện và an toàn đối với sức khỏe[9]. Mức độ “xanh” của một sản phẩm du lịch sẽ phụ thuộc nhiều vào mức thân thiện với môi trường để hình thành nên sản phẩm du lịch. Như vậy, theo cách tiếp cận này, sản phẩm DLX được hiểu là những sản phẩm có hàm lượng cao các yếu tố, đặc biệt là dịch vụ thân thiện môi trường, được phát triển phù hợp với các nguyên tắc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Điều này càng khẳng định, DLX giữ vai trò quan trọng trong bảo tồn tự nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học và văn hóa cộng đồng. Ngoài ra, phát triển DLX đã và đang đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, DLX tạo cơ hội tăng thêm việc làm và nâng cao thu nhập cho cộng đồng người dân địa phương, nhất là người dân ở vùng sâu, vùng xa - nơi có các khu bảo tồn tự nhiên và các cảnh quan hấp dẫn. Mặt khác, DLX còn góp phần nâng cao dân trí và sức khỏe cộng đồng thông qua các hoạt động giáo dục môi trường, văn hóa, lịch sử và nghỉ ngơi, giải trí. Đồng thời, DLX còn là giải pháp gia tăng lượng khách có mức chi tiêu cao và có ý thức, hành động văn minh khi tham gia du lịch. Theo một khảo sát của Tổ chức Trip Advisor, khoảng hơn 34% số du khách sẵn sàng chi trả thêm để ở những khách sạn thân thiện với môi trường, 50% số du khách sẵn sàng chi trả thêm cho những công ty mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương và hoạt động bảo tồn[10]. Chính vì vậy, nhiều quốc gia trên thế giới và khu vực, phát triển DLX được xem là nền tảng quan trọng để đảm bảo sự thịnh vượng và phát triển bền vững cho ngành du lịch.
2. Thực trạng du lịch xanh ở Việt Nam
2.1. Về phát triển du lịch xanh
Theo Báo cáo hiện trạng đa dạng sinh học năm 2011 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam được ghi nhận là một trong những nước có sự đa dạng sinh học cao trên thế giới, với nhiều kiểu hệ sinh thái tự nhiên, các loài sinh vật phong phú và đặc hữu. Về thành phần thực vật, có khoảng 20.000 loài thuộc 305 họ, trong đó có nhiều loài cổ xưa và hiếm như Tuế phát triển từ Đại Trung Sinh, hơn 1.657 loài cây thuốc có giá trị kinh tế... Về động vật, có khoảng 10.500 loài trên cạn; khoảng 2.000 loài động vật không xương sống và cá ở nước ngọt; dưới biển, có trên 11.000 loài sinh vật biển. Ngoài ra, các nhà khoa học dự báo còn nhiều loài sinh vật hoang dã khác ở Việt Nam chưa được biết tới và số loài sinh vật đã biết như trên còn thấp hơn nhiều so với số loài thực có trong thiên nhiên, điều này thể hiện mức độ đặc hữu khá cao của khu hệ sinh vật nội địa Việt Nam. Cùng với các loài động thực vật tự nhiên, Việt Nam còn là một trung tâm của cây trồng nhân tạo với hơn 200 loài cây trồng nông nghiệp, là nơi tập hợp của rất nhiều khu rừng nguyên sinh nằm trong danh sách bảo tồn, như rừng Quốc gia Cúc Phương, rừng Quốc gia Ba Vì… với các hang động nổi tiếng như Sơn Đoòng, hang Phong Nha - Kẻ Bàng[11]…
Bên cạnh các điều kiện tự nhiên, tiềm năng nhân văn cho phát triển DLX ở Việt Nam cũng rất đa dạng và phong phú. Việt Nam có nền văn hóa đa dạng bản sắc của 54 dân tộc, trong đó có nhiều tài nguyên đặc biệt có giá trị. Về các di tích, trong số hơn 41.000 di tích, thắng cảnh thì có hơn 4000 di tích được xếp hạng di tích Quốc gia và hơn 9.000 di tích xếp hạng cấp tỉnh, tiêu biểu là: Quần thể di tích cố đô Huế, phố cổ Hội An, khu di tích đền tháp Thánh địa Mỹ Sơn, khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long, Thành nhà Hồ, Vịnh Hạ Long, Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, quần thể danh thắng Tràng An - Ninh Bình đã được UNESCO công nhận là di sản vật thể văn hoá thế giới[12]… Ngoài các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng, nhiều nghề thủ công truyền thống với kỹ năng độc đáo, những lễ hội gắn liền với các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian đặc sắc của cộng đồng 54 dân tộc, kết hợp với những nét riêng, tinh tế của nghệ thuật ẩm thực đặc trưng của vùng, miền.
DLX là loại hình du lịch còn khá mới ở nước ta, nhưng trước nhu cầu của thị trường và khả năng đáp ứng từ các tiềm năng phát triển DLX ở Việt Nam; những năm gần đây, hoạt động DLX dần hình thành ở một số nơi dưới các hình thức khai thác tiềm năng tài nguyên du lịch tự nhiên khác nhau. Các doanh nghiệp du lịch đã chủ động áp dụng những biện pháp để chuyển đổi theo hướng phát triển xanh với các mô hình tiết kiệm điện, nước, đăng ký chứng nhận nhãn Bông sen Xanh cho các cơ sở lưu trú, xây dựng những tour du lịch có trách nhiệm như: Thám hiểm hang động ở Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình), tour vớt rác tại Hội An (Quảng Nam). Ngoài ra, phải đề cập đến Hội chợ Du lịch quốc tế Việt Nam năm 2019 với chủ đề DLX cùng mục tiêu tăng trưởng xanh, thể hiện qua việc thiết kế gian hàng bằng những vật liệu thân thiện với môi trường, các tour khuyến khích du khách nâng cao ý thức bảo vệ môi trường.
Mặc dù có nhiều tiềm năng phát triển, tuy nhiên DLX ở Việt Nam được đánh giá là đang ở giai đoạn đầu và gặp nhiều khó khăn trong phát triển. Loại hình du lịch này còn mới từ quan điểm tiếp cận, trong tổ chức quản lý, khai thác tài nguyên phục vụ cho mục đích du lịch và phương diện pháp lý điều chỉnh. Qua các báo cáo về thống kê trong ngành du lịch nhận thấy, thị trường khách của DLX ở Việt Nam còn hạn chế, phần lớn khách du lịch quốc tế đến các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên là ở các nước Tây Âu, Bắc Mỹ và Australia; đối với khách nội địa chủ yếu là học sinh, sinh viên và cán bộ nghiên cứu. Trong số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam hàng năm, chỉ có khoảng 5 - 8% tham gia vào các tour du lịch sinh thái tự nhiên và khoảng 40 - 45% tham gia tour du lịch tham quan - sinh thái nhân văn; với thị trường khách du lịch nội địa, tỷ lệ này rất khiêm tốn[13]. Điều này cho thấy, quá trình vận hành DLX ở nước ta còn tồn tại một số vấn đề, làm cho loại hình du lịch này chưa được phát triển, cụ thể là:
Một là, phát triển du lịch chưa gắn với khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên, hiệu suất sử dụng tài nguyên thấp. Thị trường tiêu dùng du lịch ngày càng tăng, sức tiêu thụ mạnh của ngành này đã lan tỏa đến mọi miền, tận dụng tối đa tài nguyên thiên nhiên địa phương để phát triển ngành du lịch, với mục đích chính là “kiếm tiền”. Do vậy, dễ xảy ra tình trạng lãng phí tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường, quy hoạch không phù hợp trong quá trình xây dựng các điểm/khu tham quan du lịch.
Hai là, phát triển du lịch chưa gắn kết chặt chẽ với bảo vệ môi trường, chưa tính đến biến đổi khí hậu. Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, mang tính liên ngành, liên vùng và phức tạp. Đặc biệt, hoạt động du lịch luôn gắn với sự di chuyển của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu thăm quan, giải trí, nghỉ dưỡng... Những hoạt động này làm phát thải một lượng lớn khí carbon. Theo đó, với các phương tiện giao thông phục vụ nhu cầu du lịch, các máy móc và thiết bị được bố trí bên trong các điểm/khu tham quan du lịch đã tạo ra lượng lớn khí thải carbon, gây ô nhiễm môi trường sinh thái ngay trong nơi này, điều này làm tăng gánh nặng cho môi trường không khí. Theo báo cáo của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), lượng carbon phát thải liên quan đến giao thông của Ngành Du lịch chiếm 22% tổng lượng khí thải trong năm 2016 và xu hướng sẽ tiếp tục tăng đến năm 2030; trong đó, Việt Nam xếp thứ 27 trên thế giới về phát khí thải. Qua đó cho thấy, lượng khí thải carbon trong Ngành Du lịch ngày càng lớn. Các cuộc khảo sát và nghiên cứu của chuyên gia về môi trường đã xác định, biến đổi khó hậu là do khí nhà kính, trong đó 95% khí nhà kính là do con người tạo ra. Khi mà du lịch quốc tế với các chuyến bay đường dài là phân khúc tăng trưởng mạnh nhất và góp khoảng 25% tổng lượng khí thải carbon của ngành du lịch. Cũng theo Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế, tổng lượng khách ngành hàng không dự kiến sẽ tăng gấp đôi vào năm 2036 lên 7,8 tỉ lượt người/năm[14]. Như vậy, phát thải carbon liên quan đến giao thông ngành du lịch là một thách thức và trở ngại lớn trong việc phát triển bền vững ngành du lịch, đặc biệt là phát triển DLX.
Ba là, công tác tuyên truyền chưa hiệu quả, nhận thức về tiêu dùng xanh của khách du lịch còn hạn chế. Mặc dù hiện nay, điểm/khu du lịch, các cơ sở kinh doanh du lịch, Hiệp hội Du lịch Việt Nam đã có một số chương trình hành động “Du lịch chung tay bảo vệ môi trường, hạn chế rác thải nhựa” thông qua việc triển khai xây dựng các sản phẩm DLX tại địa phương về bảo vệ môi trường. Song nhìn chung, việc tuyên truyền, cung cấp thông tin về các vấn đề liên quan đến DLX tới các chủ thể tham gia du lịch chưa mang lại hiệu quả sâu rộng, công tác tổ chức chưa đồng bộ, chưa có sự phối hợp chặt chẽ từ các bên liên quan. Thực tế, nhiều chủ thể kinh doanh tại các điểm/khu du lịch vẫn chưa hiểu rõ/chưa biết các nguyên tắc, yêu cầu trong khai thác DLX. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong nhận thức về tiêu dùng xanh của khách du lịch. Trong hoạt động du lịch, lượng khách du lịch và hành vi tiêu dùng của họ có tác động đến toàn bộ quá trình du lịch. Do vậy, ý thức và hành vi của khách du lịch đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển bền vững của môi trường. Tuy nhiên, do khái niệm tiêu dùng xanh, DLX vẫn còn khá mới, tính thuyết phục chưa cao, nên một số khách du lịch vẫn chưa ý thức được tác động tiêu cực từ hành vi du lịch của mình đến môi trường. Vì vậy, họ vẫn có những hành vi ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của DLX[15].
Bốn là, thiếu sự giám sát, quản lý và phối hợp giữa các cơ quan chức năng. Trước tình trạng khai thác, sử dụng tài nguyên tự nhiên vào hoạt động du lịch “ồ ạt” khi chưa có quy hoạch/chưa thực hiện đúng quy hoạch; quá trình kinh doanh du lịch chưa đáp ứng/chưa tuân thủ nghiêm các yêu cầu của cơ quan quản lý đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng cho môi trường. Nguyên nhân của tồn tại này, một phần vì thiếu sự giám sát/giám sát chưa nghiêm và toàn diện từ các cơ quan chức năng. Công tác giám sát này chưa thực hiện xuyên suốt và chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan liên quan. Từ đó, dẫn đến việc các chủ thể kinh doanh du lịch chưa chú trọng tuân thủ nghiêm các quy chuẩn, yêu cầu về bảo vệ môi trường sinh thái.
2.2. Về chính sách và khung pháp luật điều chỉnh
Nhận thức vai trò của DLX đối với sự phát triển của ngành du lịch nói riêng và bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo đảm cho sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng và Chính phủ chủ đã sớm ban hành nhiều chủ trương, chính sách để tạo môi trường thuận lợi cho phát triển DLX ở nước ta. Ngày 16/01/2017, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; Quyết định số 2473/QĐ-TTg ngày 30/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Trong nội dung của Chiến lược nhấn mạnh: “Muốn phát triển du lịch bền vững phải gắn chặt với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc; giữ gìn cảnh quan, bảo vệ môi trường. Khi quy hoạch, đầu tư phát triển sản phẩm du lịch cần dựa trên thế mạnh nổi trội và hấp dẫn về tài nguyên du lịch; tập trung ưu tiên phát triển sản phẩm du lịch biển, đảo, du lịch văn hóa và du lịch sinh thái….”. Ngày 22/01/2020, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 147/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030”. Chiến lược này khẳng định phát triển du lịch sinh thái, du lịch nông nghiệp nông thôn dựa trên lợi thế về tài nguyên của từng vùng, từng địa phương là hướng đi bền vững để phát triển DLX ở Việt Nam. Mục tiêu của Chiến lược là phấn đấu đến năm 2025, Việt Nam thuộc nhóm ba quốc gia dẫn đầu về phát triển du lịch trong khu vực Đông Nam Á, tăng trưởng bình quân 13 - 14%/năm, đón ít nhất 35 triệu lượt du khách quốc tế và 120 triệu lượt khách nội địa với tổng thu nhập từ 77 - 80 tỷ USD. Đến năm 2030, tổng thu từ khách du lịch của Việt Nam sẽ tăng gấp hai lần năm 2025.
Những văn bản này là cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng thúc đẩy phát triển ngành du lịch Việt Nam nói chung, trong đó có DLX. Bên cạnh được sự đồng thuận từ chủ trương, chính sách ở trung ương, cấp chính quyền địa phương đã xây dựng các đề án, ban hành các quyết định phát triển loại hình DLX phù hợp với địa phương mình. Ngoài ra, nhiều chương trình hành động cụ thể cũng được vạch ra để hiện thực hóa các chủ trương, chính sách này: “Hội nghị Quốc tế về xây dựng khung chiến lược phát triển hoạt động du lịch sinh thái của Việt Nam” được Tổng cục Du lịch Việt Nam phối hợp với Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) và các Ủy ban Kinh tế - Xã hội Châu Á Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức vào tháng 9/1999; Chương trình hành động “Du lịch chung tay bảo vệ môi trường, hạn chế rác thải nhựa”...
Mặc dù vậy, dưới phương diện quản lý nhà nước thì rào cản đối với phát triển DLX ở Việt Nam là sự thiếu hụt cơ chế, chính sách và những hướng dẫn cụ thể để phát triển loại hình du lịch này. Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt từ năm 2012, nhưng các cơ chế, chính sách đồng bộ để thúc đẩy phát triển DLX cũng như các quy định, hướng dẫn cụ thể vẫn chưa được ban hành. Điều này, dẫn đến việc phát triển du lịch ở nhiều địa phương còn mang tính tự phát, không tuân thủ các yêu cầu, nguyên tắc phát triển xanh và bền vững. Những hạn chế trong khung pháp lý điều chỉnh DLX ở Việt Nam được thể hiện như sau:
Một là, chưa có quy định riêng chính thức điều chỉnh DLX. Sự vận hành và phát triển DLX trong thời gian qua được thực hiện trên cơ sở các quy định chung của Luật Du lịch và từ các quy định pháp luật chuyên ngành khác để hiện thực hóa. Ở Việt Nam, dù chưa xuất hiện và tồn tại chính thức trong quản lý nhà nước trong các văn bản quy phạm pháp luật, song trên thực tế DLX đang dần phát triển và là xu hướng bền vững của ngành du lịch nói chung. DLX được điều chỉnh bởi các quy định chung của Luật Du lịch và từ nhiều luật chuyên ngành, như: Luật Đa dạng sinh học, Luật Lâm nghiệp, Luật Thủy sản, Luật Quy hoạch, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đầu tư… Các quy định của những luật này còn chung chung, chủ yếu nêu nguyên tắc về tính bảo đảm phát triển bền vững về khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, chưa đề cập trực tiếp cũng như bao quát bản chất, yêu cầu của DLX.
Hai là, tình trạng đầu tư bất động sản, đặc biệt là “bất động sản nông nghiệp” ở gần khu/điểm DLX tăng nhanh gây sức ép đến các yêu cầu môi trường sinh thái. Nhiều nhà đầu tư tranh thủ xây dựng những khu nghỉ dưỡng, homestay, farmstay, nhà nghỉ, khách sạn... nhằm phục vụ nhu cầu khách du lịch. Điều này, làm phát sinh nhiều vấn đề trong quy hoạch có thể làm phá vỡ tính sinh thái trong DLX, vấn đề bảo vệ môi trường… bởi có sự hạn chế và chồng chéo giữa các quy định có liên quan như sử dụng, quy hoạch đất nông - lâm nghiệp làm du lịch farmstay trong Luật Đất đai, các quy định về giao dịch bất động sản nông nghiệp trong Luật Quy hoạch, Luật Nhà ở, Luật Bảo vệ môi trường... Đặc biệt, hiện trạng đầu tư bất động sản nông nghiệp qua mô hình farmstay tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các bên tham gia, khi mà vẫn chưa có khung pháp lý chính thức điều chỉnh. Điều này, dẫn đến nhiều hệ lụy tiêu cực gây ảnh hưởng tới môi trường đầu tư, kinh doanh cũng như quỹ đất nông - lâm nghiệp[16]. Theo thông báo từ Bộ Tài nguyên và Môi trường, tính đến cuối năm 2020, có 07 tỉnh, thành phố có phát hiện mô hình farmstay với 68 mô hình (gồm 26 mô hình hộ gia đình tự sản xuất kinh doanh, 42 mô hình có xây dựng dự án đầu tư, với diện tích là 412,61 ha); 4/7 tỉnh có sai phạm với 21 mô hình farmstay, với diện tích 132,90 ha có vi phạm pháp luật đất đai. Hình thức sai phạm chủ yếu là chuyển mục đích trái phép, thực hiện dự án khi chưa được giao, cho thuê, xây dựng nhà, công trình trái phép trên đất nông, lâm nghiệp được giao quản lý và sản xuất[17].
Ba là, các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh ngành du lịch chưa xây dựng, chưa ban hành các hướng dẫn đầy đủ về: Tiêu chí; quy định lượng hóa các chỉ số xanh trong DLX; quy định các điều kiện, đánh giá tác động môi trường và hệ thống kiểm soát; quản lý các vấn đề về môi trường liên quan đến các hoạt động du lịch, đặc biệt là DLX. Dẫn đến tình trạng lúng túng khi thực hiện cũng như áp dụng quy định về DLX đối với chủ thể kinh doanh và chủ thể quản lý.
Bốn là, chưa có nghiên cứu đánh giá một cách toàn diện và hệ thống về môi trường du lịch Việt Nam để làm căn cứ đề ra các quy hoạch cũng như giải pháp khai thác hợp lý tài nguyên, bảo đảm môi trường cho phát triển DLX bền vững.
3. Một số khuyến nghị hoàn thiện chính sách và xây dựng khung pháp lý phát triển du lịch xanh ở Việt Nam trong thời gian tới
Một là, Chính phủ cần chủ động, tăng cường chỉ đạo rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện thể chế, chính sách, các quy định có liên quan đến DLX, theo đó:
- Thận trọng nghiên cứu khi xây dựng và quy hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên, vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường và bảo tồn giá trị văn hóa cộng đồng khi phát triển DLX.
- Ban hành chính sách ưu đãi phù hợp về đất đai, thuế, tín dụng để huy động nguồn lực đầu tư tại các cụm du lịch, khu vực động lực phát triển DLX. Bởi vì thực tế, chi phí đầu tư ban để phát triển những giải pháp xanh là khá lớn. Đây là trở ngại đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ kinh doanh, địa phương khi kinh doanh DLX. Ngoài ra, cần có chính sách đặc thù khuyến khích các cơ sở dịch vụ du lịch sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, sản phẩm tái chế, tái sử dụng, ứng dụng công nghệ sạch để hạn chế ô nhiễm môi trường và giảm thiểu phát thải khí nhà kính.
- Cần có sự phối hợp giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường với Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng... tổ chức nghiên cứu thực tế mô hình farmstay ở các địa phương và sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách pháp luật có liên quan, tạo hành lang pháp lý cho loại hình kinh tế này phát triển đúng quy định pháp luật nhưng vẫn bảo đảm được các yêu cầu của DLX.
- Đối với chính sách pháp luật đất đai cần tiếp tục nghiên cứu về phân loại đất; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hỗn hợp trên đất nông - lâm nghiệp; điều kiện tách thửa đất nông nghiệp theo loại hình farmstay; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với loại hình farmstay. Bổ sung quy phạm điều chỉnh đối với bất động sản nông nghiệp trong Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Đất đai, Luật Nhà ở và các văn bản có liên quan. Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện các hành vi lấn, chiếm, hủy hoại đất đai; vi phạm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được công bố; sử dụng đất không đúng mục đích…
Hai là, cần phải nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện và hệ thống về môi trường du lịch Việt Nam để làm căn cứ đề ra các quy hoạch cũng như giải pháp khai thác hợp lý tài nguyên, bảo đảm môi trường cho phát triển DLX bền vững. Trước tiên, nên giao cho các cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước về môi trường và ngành du lịch thực hiện. Ngoài ra, nên chủ động và tăng cường hỗ trợ, thúc đẩy quan hệ hợp tác công - tư và các mô hình quản trị tích hợp các khu vực công và tư nhân, doanh nhân, các nhà khoa học để phối hợp nghiên cứu.
Ba là, Nhà nước cần ban hành các văn bản điều chỉnh trực tiếp đối với hoạt động DLX. Bởi đây là loại hình du lịch đặc thù có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều lĩnh vực như: Hệ sinh thái địa phương/vùng, môi trường, tài nguyên bản địa… Điều này có thể thực hiện theo hướng ban hành nghị định điều chỉnh mô hình DLX. Đồng thời, khi xây dựng và ban hành quy định liên quan đến phát triển du lịch nói chung, trong đó có DLX cần được lượng hóa, chẳng hạn như lượng khí thải carbon hàng năm, tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia về DLX. Ngoài ra, cần có các chỉ số đánh giá xanh cụ thể nhằm phát triển hợp lý tài nguyên thiên nhiên, cân nhắc cả lợi nhuận và mục tiêu bảo vệ môi trường; nhu cầu và hành vi tiêu dùng xanh của khách du lịch nhằm hạn chế tiêu dùng quá mức hay các hành vi bất hợp lý khác. Đối với các chủ thể kinh doanh dịch vụ DLX cần có các chỉ số đánh giá bảo vệ môi trường cụ thể, mang tính liên ngành như dịch vụ vận tải, ăn uống, lưu trú… Đây là căn cứ để công nhận những sản phẩm DLX như: Tour DLX, khách sạn xanh, nhà hàng xanh…
Bốn là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch nói chung, nhất là DLX. Sự quản lý, giám sát cần thực hiện suốt quá trình của hoạt động kinh doanh du lịch như: Khai thác tài nguyên thiên nhiên; thực hiện đánh giá định lượng tác động đến môi trường; tổ chức, vận hành các hoạt động du lịch, các tiêu chuẩn về xử lý rác thải, nước thải từ du lịch, kiểm soát chất lượng dịch vụ đạt tiêu chuẩn xanh… đặc biệt là nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, xử lý kịp thời những vi phạm xảy ra để góp phần bảo vệ môi trường bền vững khi phát triển ngành du lịch nói chung. Mặt khác, cần bố trí một bộ phận chuyên trách để giải quyết, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường một cách kịp thời và toàn diện. Đồng thời, đổi mới hoạt động phối hợp liên ngành, liên vùng về du lịch, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo nhà nước về du lịch và Ban Chỉ đạo phát triển du lịch cấp tỉnh đáp ứng yêu cầu liên kết phát triển du lịch bền vững.
Năm là, giáo dục và nâng cao nhận thức về DLX, tăng cường hợp tác và liên lạc giữa các địa phương. Việc kiểm tra, giám sát từ các cơ quan chức năng trong ngành du lịch nói chung vẫn có thể tồn tại những hạn chế nhất định. Vì vậy, về lâu dài ý thức của các chủ thể có liên quan trong khai thác, sử dụng các tài nguyên gắn với trách nhiệm bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu được nâng lên thì việc vận hành quy định pháp luật điều chỉnh DLX sẽ hiệu quả hơn. Trong đó, đặc biệt là ý thức của khách du lịch, vì chỉ khi khách du lịch nhận thấy tiêu dùng xanh đem lại những lợi ích cho bản thân họ, cho gia đình và cho xã hội thì DLX mới có thể phát triển bền vững. Do vậy, cần khơi dậy sự hưởng ứng rộng rãi trong nhân dân về lợi ích của DLX. Để thực hiện được điều này có thể phát những video ngắn, thú vị và sinh động tại các khu/điểm du lịch, trên các phương tiện vận chuyển du khách như tàu hỏa, máy bay, tại các địa phương kinh doanh du lịch về hậu quả của ô nhiễm môi trường hay lợi ích của phát triển DLX.
Sáu là, cần phát triển nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn về DLX để có thể tiếp cận, học hỏi các kinh nghiệm phát triển DLX trên thế giới khi vận hành và phát triển loại hình du lịch này ở Việt Nam. Theo đó, quản lý ngành du lịch nên ưu tiên nguồn lực cho công tác quy hoạch, đào tạo nhân lực, nghiên cứu thị trường, xúc tiến, phát triển các sản phẩm DLX. Bên cạnh đó, đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo nhân lực phục vụ DLX; chú trọng đào tạo kỹ năng nghề và kỹ năng mềm cho lực lượng lao động trực tiếp phục vụ du lịch, đặc biệt là đội ngũ hướng dẫn viên, thuyết minh viên du lịch tại điểm/khu DLX; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho cộng đồng dân cư tham gia kinh doanh du lịch nói chung ở địa phương.
Bảy là, Hiệp hội Du lịch Việt Nam, Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam, cung cấp dịch vụ và tư vấn pháp luật cho các chủ thể khi có nhu cầu kinh doanh DLX để thúc đẩy phát triển loại hình du lịch này được bền vững. Đồng thời, đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá DLX ở Việt Nam thông qua việc đổi mới phương thức, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong xúc tiến, quảng bá tiến tới xây dựng được thương hiệu DLX theo từng khu vực/vùng đặc trưng.
Tám là, ứng dụng khoa học, công nghệ trong vận hành để phát triển DLX. Theo đó, cần đẩy nhanh việc chuyển đổi số trong ngành du lịch nói chung. Điều này có thể thực hiện qua việc phát triển du lịch thông minh; kết hợp quản lý khách du lịch và hoạt động du lịch, tài nguyên du lịch, kiểm soát, giám sát và cảnh báo ô nhiễm trên cơ sở ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại và nền tảng công nghệ số. Đồng thời, phát triển hệ sinh thái du lịch thông minh; ứng dụng công nghệ số để kết nối nhằm hỗ trợ và tăng trải nghiệm cho khách du lịch; đặc biệt ứng dụng công nghệ số, công nghệ xanh, sạch trong kinh doanh du lịch; ứng dụng công nghệ thông tin để hoàn thiện hệ thống thống kê du lịch; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu ngành du lịch, kết nối với hệ thống cơ sở dữ liệu Quốc gia. Mở rộng hợp tác quốc tế, gắn thị trường du lịch Việt Nam với thị trường du lịch khu vực và thế giới; mở rộng quan hệ, tận dụng sự hỗ trợ quốc tế trong phát triển DLX Việt Nam./.
Đại học Đồng Tháp
[1]Jafar Jafari & Honggen Xiao, (2002), Bách khoa toàn thư về Du lịch, p.109 - 110.
[2] Nghiên cứu tổng quan và chiến lược phát triển kinh tế du lịch xanh ở Việt Nam, Tạp chí Công thương online, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/nghien-cuu-tong-quan-va-chien-luoc-phat-trien-kinh-te-du-lich-xanh-o-viet-nam-80330.htm, truy cập ngày 10/6/2022.
[3] Nghiên cứu trao đổi về Du lịch Xanh tại Việt Nam hiện nay: Bài học kinh nghiệm của Thái Lan và triển vọng trong tương lai, http://itdr.org.vn/nghien_cuu/nghien-cuu-trao-doi-ve-du-lich-xanh-tai-viet-nam-hien-nay-bai-hoc-kinh-nghiem-cua-thai-lan-va-trien-vong-trong-tuong-lai/, truy cập ngày 10/6/2022.
[4] Nghiên cứu tổng quan và chiến lược phát triển kinh tế du lịch xanh ở Việt Nam, Tạp chí Công thương online, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/nghien-cuu-tong-quan-va-chien-luoc-phat-trien-kinh-te-du-lich-xanh-o-viet-nam-80330.htm, truy cập ngày 10/6/2022.
[5] Du lịch sinh thái không đơn thuần là du lịch thiên nhiên, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 3, tr. 27 - 37.
[6] Nghiên cứu tổng quan và chiến lược phát triển kinh tế du lịch xanh ở Việt Nam, Tạp chí Công thương online, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/nghien-cuu-tong-quan-va-chien-luoc-phat-trien-kinh-te-du-lich-xanh-o-viet-nam-80330.htm, truy cập ngày 10/6/2022.
[7] Phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu, Tham luận trong Hội thảo “Môi trường và phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu”, ngày 12/11, Hà Nội.
[8] Nghiên cứu trao đổi về Du lịch Xanh tại Việt Nam hiện nay: Bài học kinh nghiệm của Thái Lan và triển vọng trong tương lai, http://itdr.org.vn/nghien_cuu/nghien-cuu-trao-doi-ve-du-lich-xanh-tai-viet-nam-hien-nay-bai-hoc-kinh-nghiem-cua-thai-lan-va-trien-vong-trong-tuong-lai/, truy cập ngày 10/6/2022.
[9] Bảo tồn và phát triển du lịch xanh Việt Nam, Tạp chí Môi trường, số 01, tr. 41 - 43.
[10] Du lịch xanh: Sự bảo đảm cho phát triển du lịch bền vững, https://vietnamnet.vn/vn/goc-nhin/du-lich-xanh-su-bao-dam-cho-phat-trien-du-lich-ben-vung-724752.html, truy cập ngày 12/6/2022.
[11] Phát triển du lịch xanh Việt Nam, https://giaoducthoidai.vn/kinh-te-xa-hoi/phat-trien-du-lich-xanh-viet-nam-43277.html, truy cập ngày 10/6/2022.
[12] Nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di tích ở Việt Nam hiện nay, https://www.quanlynhanuoc.vn/2021/04/29/nang-cao-hieu-qua-cong-tac-quan-ly-bao-ton-va-phat-huy-gia-tri-di-tich-o-viet-nam-hien-nay/, truy cập ngày 12/6/2022.
[13] Phát triển du lịch xanh Việt Nam, https://giaoducthoidai.vn/kinh-te-xa-hoi/phat-trien-du-lich-xanh-viet-nam-43277.html, truy cập ngày 10/6/2022.
[14] Nghiên cứu tổng quan và chiến lược phát triển kinh tế du lịch xanh ở Việt Nam. Tạp chí Công thương online, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/nghien-cuu-tong-quan-va-chien-luoc-phat-trien-kinh-te-du-lich-xanh-o-viet-nam-80330.htm, truy cập ngày 10/6/2022.
[15] Nghiên cứu tổng quan và chiến lược phát triển kinh tế du lịch xanh ở Việt Nam. Tạp chí Công thương online, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/nghien-cuu-tong-quan-va-chien-luoc-phat-trien-kinh-te-du-lich-xanh-o-viet-nam-80330.htm, truy cập ngày 10/6/2022.
[16] Xây dựng hành lang pháp lý cho kinh doanh bất động sản nông nghiệp ở Việt Nam, Tạp chí Công thương online, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/xay-dung-hanh-lang-phap-ly-cho-kinh-doanh-bat-dong-san-nong-nghiep-o-viet-nam-66651.htm, truy cập ngày 10/6/2022.
[17] Mô hình farm stay còn nhiều “khoảng trống” pháp lý. https://baotainguyenmoitruong.vn/mo-hinh-farmstay-con-nhieu-khoang-trong-phap-ly-317013.html, truy cập ngày 12/10/2021.