Tóm tắt: Bài viết phân tích quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về các tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, một số khó khăn, vướng mắc và đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về các tội này.
Abstract: The article analyzes the provisions of the 2015 Penal Code on crimes of producing, storing, transporting and trading banned goods, some difficulties and problems and proposes some recommendations to improve the provisions of criminal law for these crimes.
1. Quy định của pháp luật Việt Nam về Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190) và Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (Điều 191)
1.1. Dấu hiệu pháp lý của hai tội danh này
Một là, về khách thể của tội phạm:
Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) đặt tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm tại “Chương XVIII - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” cho thấy khách thể của tội phạm này là quan hệ xã hội bảo đảm cho sự hoạt động bình thường của nền kinh tế quốc dân được pháp luật bảo vệ.
Hành vi phạm tội của tội tàng trữ, sản xuất, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là hành vi xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các loại hàng hóa Nhà nước cấm sản xuất, kinh doanh, hay còn gọi là “hàng cấm”. Các hàng hóa này không được Nhà nước cho phép lưu thông trên thị trường, không cho phép các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tàng trữ, sản xuất, kinh doanh. Bao gồm: Thuốc bảo vệ thực vật cấm hoặc chưa được phép sử dụng tại Việt Nam, thuốc lá điếu, xì gà và các dạng thuốc lá thành phẩm khác nhập lậu, các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy, mê tín dị đoan hoặc có hại tới giáo dục thẩm mỹ, nhân cách, thực vật, động vật hoang dã (bao gồm cả vật sống và các bộ phận của chúng đã được chế biến) thuộc danh mục điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên quy định và các loại thực vật, động vật quý hiếm thuộc danh mục cấm khai thác và sử dụng, thủy sản cấm khai thác, thủy sản có dư lượng chất độc hại vượt quá giới hạn cho phép, thủy sản có độc tố tự nhiên gây nguy hiểm đến tính mạng con người, phân bón không có trong danh mục được phép sản xuất, kinh doanh và sử dụng tại Việt Nam, khoáng sản đặc biệt, độc hại và đồ chơi nguy hiểm, đồ chơi có hại tới giáo dục nhân cách và sức khỏe của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Ngoài ra, còn một số loại hàng cấm thuộc danh mục Nhà nước cấm sản xuất, kinh doanh và lưu thông là đối tượng tác động tại Điều 190 và 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 như: Các loại thuốc chữa bệnh cho người, các loại vắc xin, sinh phẩm y tế, mỹ phẩm, hóa chất và chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn trong lĩnh vực gia dụng và y tế chưa được phép sử dụng tại Việt Nam; các loại trang thiết bị y tế chưa được phép sử dụng tại Việt Nam; phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, vi chất dinh dưỡng, thực phẩm chức năng, thực phẩm có nguy cơ cao, thực phẩm được bảo quản bằng phương pháp chiếu xạ, thực phẩm có gen đã bị biến đổi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép; sản phẩm, vật liệu có chứa amiăng thuộc nhóm amphibole.
Tính chất và đặc điểm của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói riêng luôn bị chi phối bởi những chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước, có hành vi trước là tội phạm nhưng sau không còn là tội phạm nữa. Vì vậy, để xác định đối tượng tác động của tội này phải căn cứ vào các văn bản của Nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý kinh tế mới xác định được. Số lượng hàng cấm hoặc lợi nhuận thu được từ việc lưu thông hàng cấm là một căn cứ quan trọng trong việc xác định có cấu thành tội phạm hay không và cân nhắc quyết định hình phạt đối với người phạm tội.
Hai là, về mặt khách quan của tội phạm:
- Hành vi khách quan của tội phạm:
+ Về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm:
Điều 190 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định hai loại hành vi:
(i) Hành vi sản xuất hàng cấm: Là hành vi làm ra hàng cấm, có thể là chế tạo, chế bản, in ấn, gia công, đặt hàng, sơ chế, chế biến, chiết xuất, tái chế, lắp ráp, pha trộn, san chia, sang chiết, nạp, đóng gói và hoạt động khác làm ra hàng cấm. Người phạm tội có thể tham gia vào toàn bộ quá trình làm ra hàng cấm hoặc chỉ một công đoạn của quá trình làm ra hàng cấm.
(ii) Hành vi buôn bán hàng cấm: Là hành vi mua đi bán lại hàng cấm dưới bất kỳ hình thức nào nhằm thu lợi bất chính như mua bán theo nghĩa thông thường, trao đổi, thanh toán bằng hàng cấm. Hành vi này có thể là chào hàng, bày bán, lưu giữ, bảo quản, bán buôn, bán lẻ, xuất khẩu, nhập khẩu hoặc là hoạt động khác đưa hàng cấm vào lưu thông.
+ Về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm:
Hành vi khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được mô tả tại khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 bao gồm hai dạng hành vi:
(i) Tàng trữ hàng cấm là hành vi cất giữ hàng cấm ở bất kỳ chỗ nào một cách trái phép, có thể là nơi ở, nơi làm việc, mang theo trong người, trong hành lý hoặc giấu ở bất kỳ một vị trí nào khác mà người tàng trữ đã chọn, không nhằm mục đích mua bán, sản xuất hoặc vận chuyển hàng cấm từ nơi này đến nơi khác. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không có ý nghĩa đối với việc truy cứu trách nhiệm hình sự.
(ii) Vận chuyển hàng cấm là hành vi dịch chuyển hàng cấm từ nơi này đến nơi khác một cách trái phép. Hình thức vận chuyển có thể là trực tiếp mang hoặc gửi hàng cấm từ địa điểm này đến địa điểm khác bằng bất cứ đường nào (đường bộ, đường thủy, đường sắt, đường hàng không, đường bưu điện) bằng bất kỳ phương thức nào (trừ hình thức chiếm đoạt), nhưng đều không nhằm mục đích buôn bán, tàng trữ.
Các hành vi này bị coi là tội phạm khi hàng cấm được quy định tại các điểm a, b, c, d, đ hoặc dưới mức quy định tại các điểm trên nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 88, 189, 190, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Các nhà lập pháp định lượng hàng cấm có số lượng, giá trị hoặc thu lợi bất chính cụ thể để xây dựng cấu thành tội phạm được quy định tại Điều 190, Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015.
- Hậu quả của tội phạm:
Luật hình sự không quy định dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm không có nghĩa là không có hậu quả xảy ra. Thực tế cho thấy, hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội, sản xuất trong nước, đồng thời gây ra những tác hại khó lường, ảnh hưởng xấu đến tính mạng, sức khỏe của con người, đến trật tự quản lý kinh tế và trị an xã hội. Hậu quả tuy không có ý nghĩa quyết định trong việc định tội song việc xác định hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xem xét trách nhiệm hình sự và cân nhắc quyết định hình phạt đối với người thực hiện hành vi phạm tội tương ứng với mức độ hậu quả mà hành vi của họ gây nên. Những dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan như thời gian, địa điểm, phương pháp, công cụ, thủ đoạn phạm tội... không đóng vai trò định tội mà chỉ có vai trò là tình tiết định khung hay tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Ba là, về mặt chủ quan của tội phạm:
- Lỗi của tội phạm: Lỗi của chủ thể là lỗi cố ý:
Về mặt lý trí của chủ thể nhận thức hàng hóa mà Nhà nước cấm sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển mà vẫn thực hiện các hành vi này đối với hàng cấm đủ định lượng trong cấu thành tội phạm hoặc nhân thân đã bị xử phạt về các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế mà tiếp tục thực hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Với nhận thức đó, họ cũng sẽ thấy được tính nguy hiểm của các hành vi trên. Trong trường hợp, chủ thể chủ động sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm để thu lợi nhuận cao, hoặc đã bị xử lý về các hành vi mô tả trong cấu thành tội phạm của điều luật mà tiếp tục vi phạm càng thể hiện rõ sự nhận thức về mặt pháp lý này của người phạm tội và trường hợp này mức độ lỗi của người phạm tội sẽ xem xét nặng hơn.
- Động cơ và mục đích phạm tội: Hai tội danh này chủ yếu vì tư lợi, vì lợi nhuận, thu nhập cao, thu lợi bất chính từ các hoạt động sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm đó.
Bốn là, về chủ thể của tội phạm:
Tội phạm được thực hiện bởi bất kỳ người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định.
Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 5 Điều 190 và khoản 5 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015.
1.2. So sánh quy định hiện hành về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm và tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm với quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015
Những thay đổi, bổ sung một cách căn bản, toàn diện, triệt để trong quy định tại Điều 190 và Điều 191 của Bộ luật Hình sự năm 2015 về sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm so với Điều 155 Bộ luật Hình sự năm 1999 thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới, hội nhập kinh tế thế giới. Cụ thể như sau:
Một là, việc tách Điều 155 thành 02 tội danh độc lập tại Điều 190 và Điều 191 đã phân biệt rõ ràng mức độ, tính chất khác nhau của hành vi phạm tội cũng như sự nguy hiểm cho xã hội riêng biệt của chúng để tránh việc xét xử không công bằng đối với những hành vi đó.
Hai là, quy định cụ thể hơn so với trước đây tại Điều 155 chỉ nêu chung chung “Người nào sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh có số lượng lớn, thu lợi bất chính lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định...”[1] về loại hàng cấm, cụ thể hóa một số tình tiết định tính, định lượng làm căn cứ định tội và định khung hình phạt như “số lượng lớn, số lượng đặc biệt lớn, thu lợi bất chính lớn, thu lợi bất chính đặc biệt lớn”.
Trong quy định của Điều 190 và Điều 191, nhà làm luật đã liệt kê các loại hàng cấm như: Thuốc bảo vệ thực vật, thuốc lá điếu nhập lậu, pháo nổ và hàng hóa khác… và nêu rõ về mức giá hàng phạm pháp có giá trị và mức thu lợi bất chính tại các khoản, các điều[2] đã đảm bảo cho việc xét xử một cách chính xác và công bằng nhất đối với tội phạm này.
Ba là, thể chế hóa quan điểm mở rộng áp dụng hình phạt tiền[3], Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định hình phạt tiền là hình phạt chính đối với 02 tội danh Điều 190 và Điều 191. Bên cạnh đó, Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng tăng chế tài xử lý tội phạm đáng kể so với luật cũ, nếu như trước đây mức tối thiểu phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 50 triệu đồng thì hiện nay mức tối thiểu phạt tiền nâng lên là 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng đối tội sản xuất, buôn bán hàng cấm; và tối thiểu phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng đối với tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm.
Bốn là, lần đầu quy định xử lý hình sự hai tội danh này đối với pháp nhân thương mại tại khoản 5 của Điều 190 và Điều 191 để đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh, xử lý các hành vi sản xuất, buôn bán, tàng trữ và vận chuyển hàng cấm trong tình hình mới.
2. Một số vấn đề vướng mắc và hướng hoàn thiện
So với Điều 155 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm thì Điều 190 và Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 được cấu tạo khoa học hơn, có nhiều sửa đổi, bổ sung hợp lý, khắc phục được một số vướng mắc trong luật cũ. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm mới tiến bộ trong quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì vẫn còn tồn tại một số vướng mắc, bất cập cần tiếp tục hoàn thiện để đạt hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm sau:
Thứ nhất, Bộ luật Hình sự năm 2015 chưa quy định cụ thể hóa danh mục hàng cấm.
Mặc dù, Điều 190 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã liệt kê một số loại hàng cấm như thuốc bảo vệ thực vật, thuốc lá điếu nhập lậu và pháo nổ, tuy nhiên còn một số hàng cấm khác quy định tại các điểm d, đ không được quy định cụ thể trong Điều luật mà chỉ quy định chung chung với phạm vi điều chỉnh quá rộng “hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng” hoặc “hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam”. Như vậy, để xác định một loại hàng hóa nào đó thuộc “hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng” và “hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam” thì cơ quan tiến hành tố tụng phải căn cứ vào rất nhiều các nghị định của Chính phủ, quyết định của bộ chủ quản ban hành. Trong khi đó, các văn bản này phải thường sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh của pháp luật đối với sự phát triển của nền kinh tế trong từng giai đoạn khác nhau của quá trình hội nhập kinh tế và khu vực. Vì vậy, có thể loại hàng hóa này ở thời điểm này sẽ bị cấm kinh doanh nhưng ở thời điểm khác có thể được phép kinh doanh và ngược lại. Từ đó, dẫn đến việc áp dụng sẽ gặp khó khăn và rất dễ nhầm lẫn vì xác định đối tượng còn lệ thuộc vào các văn bản dưới luật thường xuyên thay đổi.
Do đó, cần bổ sung quy định khái niệm về hàng cấm và các vấn đề khác có liên quan vào các khoản tương ứng tại các thông tư, nghị định. Bởi vì, nếu không xác định được thế nào là hàng cấm, thì sẽ không thể nhận thức đúng việc sản xuất, buôn bán tại Điều 190 và tàng trữ, vận chuyển hàng cấm tại Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 đáp ứng yêu cầu về tính khái quát cao, dễ hiểu để các cơ quan tư pháp dễ vận dụng trong áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, trên cơ sở những Danh mục hàng hóa cấm kinh doanh của Chính phủ và các bộ chuyên ngành ban hành để xem xét thêm những loại hàng hóa hiện nay và trong tương lai sẽ luôn cấm sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển để quy định cụ thể trong Bộ luật Hình sự nhằm bảo đảm tính công bằng, tránh sự phụ thuộc vào các văn bản dưới luật, trên cơ sở phân biệt rõ ràng đặc tính, công dụng, tính nguy hiểm cho xã hội. Ví dụ như: Nghiêm cấm sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển hàng hóa là văn hóa phản động, đồi trụy, phế liệu gây ô nhiễm môi trường, khoáng sản đặc biệt độc hại...
Thứ hai, Bộ luật Hình sự năm 2015 vẫn còn quy định tội phạm ghép đối với hành vi sản xuất, buôn bán (Điều 190) và hành vi tàng trữ, vận chuyển (Điều 191) với định lượng hàng hóa, giá trị tài sản, số tiền thu lợi bất chính trong cấu thành cơ bản, định khung tăng nặng và hình phạt như nhau, không có sự phân biệt là chưa thực sự phù hợp với tính chất nguy hiểm cho xã hội của từng hành vi khác nhau.
Theo quy định tại Điều 155 Bộ luật Hình sự năm 1999 trước đây và hiện nay là Điều 190 và Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì hành vi khách quan của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm rất đa dạng. Thực tế cho thấy, không phải trường hợp nào người phạm tội cũng thực hiện đầy đủ các hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm. Vì vậy, khó khăn thường gặp là định tội danh theo tên điều luật hay các hành vi phạm tội xảy ra, bên cạnh đó, hành vi sản xuất hàng cấm có mức độ nguy hiểm cao hơn so với hành vi buôn bán hàng cấm nên cần phải có chế tài xử lý nặng hơn so với chế tài xử lý hành vi buôn bán hàng cấm. Tương tự đối với hành vi tàng trữ và vận chuyển hàng cấm.
Cần nghiên cứu tách tội buôn bán hàng cấm thành một tội độc lập với tội sản xuất hàng cấm, tách tội tàng trữ hàng cấm thành một tội độc lập với tội vận chuyển hàng cấm để có sự phân biệt tính chất nguy hiểm cho xã hội của các hành vi phạm tội và có các chế tài xử lý phù hợp với các hành vi này.
Thứ ba, hệ thống văn bản pháp luật còn chậm được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
Thực tế hiện nay cho thấy có nhiều văn bản quản lý đối với loại hàng đó đã không còn hiệu lực hoặc còn rất nhiều văn bản còn hiệu lực hiện hành, hướng dẫn của nhiều đơn vị, cơ quan, ban, ngành, địa phương trên nhiều lĩnh vực chồng chéo, mâu thuẫn nhau, nên đã xảy ra những trường hợp không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng pháp luật đối với những trường hợp hàng hóa chưa có quy định là hàng cấm hay không. Bên cạnh đó, thực tế thời gian qua việc hướng dẫn xét xử các hành vi phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm chủ yếu bằng văn bản của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao mà không phải là Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối tối cao. Trong khi đó, theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh là thẩm quyền của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Do đó, cần thiết nghiên cứu ban hành quy định hướng dẫn Bộ luật Hình sự về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm để bảo đảm tính thống nhất áp dụng pháp luật trong xét xử các hành vi phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trong thời gian tới.
Thứ tư, quy định xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại còn chưa chặt chẽ, thống nhất, dẫn đến việc áp dụng trong đấu tranh, xử lý đối với loại tội phạm này còn hạn chế.
Việc quy định xử lý trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại là vấn đề mới trong lịch sử lập pháp hình sự của nước ta, vì vậy, việc hướng dẫn vấn đề này có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng pháp luật trong xét xử các hành vi phạm tội của pháp nhân, đặc biệt là hướng dẫn khoản 2 Điều 75 Bộ luật Hình sự năm 2015 về mối quan hệ giữa trách nhiệm hình sự của cá nhân và trách nhiệm hình sự của pháp nhân[4]. Trong khi đó, cần lưu ý hình phạt chính đối với cá nhân chỉ có thể là hình phạt tiền hoặc tù có thời hạn, còn đối với pháp nhân thì hình phạt chính chỉ có thể là hình phạt tiền thì mối quan hệ này phải được giải quyết như thế nào khi quyết định hình phạt. Vì vậy, Tòa án nhân dân tối cao cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết về xử lý trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại để cơ quan chức năng có cơ sở xử lý hành vi phạm tội.
Khoa Luật, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân
[1]. Khoản 1 Điều 155 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.
[2]. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã khắc phục những thiếu sót đối với quy định “thu lợi bất chính lớn” của Điều 155 Bộ luật Hình sự 1999 bằng việc cụ thể số tiền thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng từ hàng hóa Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng và thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng từ hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam.
[3]. Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, theo đó định hướng “đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng hình phạt tiền,… đối với một số loại tội phạm”.
[4]. Khoản 2 Điều 75 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định:“Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân”.