1. Quy định pháp luật về hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
Theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, việc tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp là yêu cầu bắt buộc đối với mỗi người lao động làm việc theo hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc có thời hạn từ đủ 01 tháng trở lên. Khoản 1 Điều 168 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: “Người sử dụng lao động, người lao động phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; người lao động được hưởng các chế độ theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp”. Hành vi vi phạm sẽ bị xử lý theo 03 hình thức: Kỷ luật, xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự.
Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) đã hình sự hóa những hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực bảo hiểm, được quy định cụ thể tại Mục 1 về các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính, ngân hàng, bao gồm 04 điều luật quy định các tội danh là tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm (Điều 213); tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp (Điều 214); tội gian lận bảo hiểm y tế (Điều 215); tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động (Điều 216).
Theo khoản 1 Điều 216 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động thì: “Người nào có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động mà gian dối hoặc bằng thủ đoạn khác để không đóng hoặc không đóng đầy đủ theo quy định từ 06 tháng trở lên thuộc một trong những trường hợp sau đây, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm: a) Trốn đóng bảo hiểm từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; b) Trốn đóng bảo hiểm cho từ 10 người đến dưới 50 người lao động”.
Điều 2 Nghị quyết số 05/2019/NQ-HĐTP ngày 15/8/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 214 về tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, Điều 215 về tội gian lận bảo hiểm y tế và Điều 216 về tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động của Bộ luật Hình sự (Nghị quyết số 05/2019/NQ-HĐTP) hướng dẫn về một số thuật ngữ được sử dụng trong quy định về tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp (bao gồm: (i) Trốn đóng bảo hiểm; (ii) Gian dối để không đóng, không đóng đầy đủ tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; (iii) Không đóng tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; (iv) Không đóng đầy đủ tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp[1]).
Như vậy, tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động là hành vi cố ý của các chủ thể tham gia vào quan hệ bảo hiểm, nhằm trốn đóng hoặc đóng không đầy đủ mức đóng bảo hiểm theo quy định, làm thâm hụt về quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, gây rối loạn trong lĩnh vực bảo hiểm.
2. Một số vướng mắc trong xử lý các hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
Theo báo cáo của lực lượng Cảnh sát kinh tế, tính từ năm 2018 đến nay đã phối hợp với cơ quan bảo hiểm xã hội các cấp tiến hành 835 cuộc thanh tra, kiểm tra, xác minh liên ngành tại 3.308 đơn vị (trong đó có 3.148 đơn vị sử dụng lao động và 160 cơ sở khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế); phối hợp xác minh, làm rõ 270 hồ sơ, vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật liên quan đến bảo hiểm xã hội với những vi phạm chủ yếu như: Gian lận trong kinh doanh bảo hiểm; gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động; trục lợi tiền bảo hiểm y tế tại các cơ sở khám, chữa bệnh… Trên cơ sở đó, đã khởi tố 13 vụ án trong lĩnh vực bảo hiểm với 17 bị can; đề nghị xử lý vi phạm hành chính 185 đối tượng, 24 pháp nhân, qua đó góp phần truy thu hơn 60 tỷ đồng cho Nhà nước. Tuy nhiên, từ ngày 01/01/2018 đến nay, trên địa bàn cả nước chưa có vụ án nào về tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động được cơ quan điều tra khởi tố, điều tra, mặc dù tính đến tháng 8/2022, bảo hiểm xã hội các cấp đã có tổng số 353 kiến nghị khởi tố gửi cơ quan điều tra kiến nghị khởi tố về tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động ở nhiều doanh nghiệp, tổ chức. Kết quả là, trong 353 kiến nghị khởi tố của bảo hiểm xã hội, cơ quan điều tra các cấp đã xác minh, ra quyết định không khởi tố với 173 kiến nghị khởi tố của cơ quan bảo hiểm xã hội các cấp; không thụ lý giải quyết 56 vụ; đang trong thời gian giải quyết 122 vụ và tạm đình chỉ giải quyết kiến nghị 02 vụ.
Thời gian qua, bên cạnh mặt tích cực của lĩnh vực bảo hiểm, tình trạng trốn đóng, chậm đóng bảo hiểm, làm giả hồ sơ để trục lợi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế… diễn ra dưới nhiều hình thức, nhiều mức độ khác nhau và có chiều hướng ngày càng gia tăng với diễn biến ngày càng phức tạp, ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của người lao động, người bệnh, cũng như ảnh hưởng đến uy tín của Nhà nước, của Ngành Bảo hiểm. Tuy nhiên, công tác phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử của các cơ quan thực thi pháp luật đối với các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động vẫn đang còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, đặc biệt là xử lý hình sự. Cụ thể:
Thứ nhất, về cơ bản, những hướng dẫn tại Nghị quyết số 05/2019/NQ-HĐTP đã làm rõ một số khái niệm quan trọng liên quan đến hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động và xác định rõ hành vi này chỉ bị xử lý hình sự khi đã bị xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, khi một tổ chức, cá nhân nợ bảo hiểm xã hội, việc xác định có sự “gian dối” hay không (hay chỉ đơn thuần là nợ vì khó khăn khách quan) là không dễ dàng; việc xử lý hình sự các doanh nghiệp trốn đóng bảo hiểm xã hội đến nay chưa được thực hiện do việc thu thập hồ sơ, tài liệu xác định tội danh hình sự đối với tội phạm này gặp nhiều khó khăn như báo cáo tài chính của đơn vị chưa sát, chưa đúng với thực trạng hoạt động của đơn vị, đơn vị không phối hợp trong việc cung cấp đầy đủ hồ sơ, tài liệu...
Đối với cơ quan điều tra, việc đang giải quyết 122 vụ và tạm đình chỉ 02 vụ cũng đã thể hiện một phần nào đó khó khăn trong công tác xác minh đối với kiến nghị khởi tố về tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động của cơ quan bảo hiểm xã hội các cấp chuyển sang. Bên cạnh đó, kết quả trên cho thấy những khó khăn trong công tác điều tra xử lý đối với tội danh này là bởi tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động là tội danh mới được đưa vào Bộ luật Hình sự năm 2015, hiện nay cũng chưa có án lệ. Mặt khác, Điều 216 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định chủ thể tội phạm phải có hành vi “gian dối hoặc bằng thủ đoạn khác” để trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế còn có những cách hiểu khác nhau. Để gỡ vướng vấn đề này trong tiếp nhận, xử lý tội danh trên, Nghị quyết số 05/2019/NQ-HĐTP đã hướng dẫn áp dụng Điều 215 và Điều 216, trong đó, xác định cụ thể hành vi “gian dối”. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng vẫn còn một số vướng mắc, chủ yếu là trong việc xác định “thủ đoạn khác” và phân biệt với trường hợp chậm đóng bảo hiểm xã hội vì lý do khách quan cùng với việc áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội theo Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, vì vậy, kết quả cho thấy, có đến 173 vụ việc cơ quan điều tra ra quyết định không khởi tố (chiếm 49%).
Thứ hai, đối với hành vi trốn đóng bảo hiểm, các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo hiểm chỉ xử phạt hành chính các công ty là pháp nhân, do đó, người đại diện theo pháp luật không bị xử lý hành chính nên rất khó xử lý hình sự đối với người đại diện theo pháp luật của các công ty trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp bởi vì họ chưa bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi này. Do vậy, đây cũng là một trong những vướng mắc dẫn đến tình trạng trốn đóng bảo hiểm hiện nay vẫn còn diễn ra tràn lan, phổ biến, gây thất thu lớn cho ngân sách nhà nước.
Thứ ba, từ kết quả xác minh điều tra của cơ quan điều tra đối với 353 kiến nghị khởi tố của các cơ quan bảo hiểm xã hội các cấp trong thời gian qua cho thấy, việc xử lý hình sự đối với các hành vi trốn đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế cho người lao động của cơ quan chức năng chưa thực sự hiệu quả và chưa bảo đảm tính “răn đe”. Từ đó dẫn đến tổng số dư nợ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế trên cả nước ngày càng tăng, từ 12.000 tỷ đồng (năm 2020) tăng lên 16.000 tỷ đồng (năm 2022). Việc dư nợ bảo hiểm xã hội lớn sẽ gây ra những hậu quả khó lường đối với quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế như: Người lao động không được bảo hiểm xã hội chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, hưu trí, tử tuất; không nhận được trợ cấp thất nghiệp..., ảnh hưởng đến số tháng, số tiền hưởng các gói hỗ trợ của Chính phủ (như các chính sách hỗ trợ tại Nghị quyết số 68/2021/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, Nghị quyết số 116/2021/NQ-CP ngày 24/9/2021 của Chính phủ về chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp, Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động…), ảnh hưởng đến việc sử dụng và điều tiết quỹ bảo hiểm xã hội chung của cơ quan bảo hiểm xã hội.
Thứ tư, việc quy định mức lãi suất chậm đóng chế độ bảo hiểm xã hội thấp hơn mức lãi suất vay ngân hàng; mức xử phạt tiền chậm đóng bảo hiểm xã hội nhỏ hơn so với lợi ích từ chiếm dụng tiền bảo hiểm xã hội mang lại, dẫn đến trên thực tế, doanh nghiệp cố tình nợ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động và chấp nhận chịu phạt để chiếm dụng tiền đóng bảo hiểm xã hội.
Thứ năm, lĩnh vực bảo hiểm là lĩnh vực rộng, liên quan đến hoạt động của nhiều doanh nghiệp và người lao động, nhiều ngành khác nhau, dẫn đến việc khó kiểm tra, kiểm soát các hành vi vi phạm tại các đơn vị sử dụng lao động. Cơ quan bảo hiểm xã hội chưa có số liệu thống kê chính xác số lượng doanh nghiệp có sử dụng lao động thuộc đối tượng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc do số liệu thống kê về số lượng doanh nghiệp đang hoạt động có sự khác nhau giữa các cơ quan quản lý (cơ quan thuế, cơ quan đăng ký và quản lý thành lập doanh nghiệp...). Cơ quan bảo hiểm xã hội chỉ kiểm soát được các doanh nghiệp tự giác khai báo lao động tham gia bảo hiểm xã hội, chưa kiểm tra, giám sát hết được số lượng doanh nghiệp phải tham gia bảo hiểm xã hội.
Thứ sáu, theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, việc khởi kiện đơn vị sử dụng lao động vi phạm về đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp là do tổ chức công đoàn thực hiện. Tuy nhiên, hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn về quy trình, thủ tục thực hiện; bên cạnh đó, để khởi kiện được đơn vị vi phạm thì phải được sự đồng ý của toàn bộ người lao động trong đơn vị, trong khi người lao động vì nhiều lý do khác nhau (như sợ mất việc làm...) nên không đề nghị khởi kiện đối với doanh nghiệp.
3. Một số kiến nghị
Một là, hoàn thiện chính sách pháp luật trong xử lý hình sự đối với tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động. Cụ thể, trước mắt, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về 04 yếu tố cấu thành của tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động theo Điều 216 Bộ luật Hình sự năm 2015, trong đó, cụ thể hóa hành vi “gian dối hoặc bằng thủ đoạn khác” để không đóng hoặc không đóng đầy đủ là như thế nào. Ngoài ra, trong thời gian tới, cần đưa hành vi chậm đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế cho người lao động trong khi đã trích lập tiền lương của người lao động vào Điều 216 Bộ luật Hình sự năm 2015 để nâng cao hiệu quả tính “răn đe”. Bên cạnh đó, hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang vận hành theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xu hướng cổ phần hóa doanh nghiệp đang diễn ra nhanh chóng, Nhà nước dần không nắm cổ phần chi phối tại các tập đoàn lớn. Vì vậy, để bảo đảm quyền lợi của người lao động thì cần nghiên cứu tăng khung hình phạt của Điều 216 lên mức nghiêm trọng, rất nghiêm trọng.
Hai là, quy định rõ hơn Điều 38 Nghị định số 28/2020/NĐ-CP ngày 01/3/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng về hình thức phạt tiền, cụ thể: Ngoài phạt tiền đối với tổ chức vi phạm, cần quy định rõ việc đồng thời phạt tiền đối với người đứng đầu hoặc người đại diện theo pháp luật của tổ chức đó ở mức độ phù hợp để gắn với trách nhiệm của cá nhân trong việc chấp hành pháp luật, tạo hành lang pháp lý làm căn cứ để xem xét trách nhiệm hình sự đối với cá nhân khi thỏa mãn cấu thành tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 216 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động về dấu hiệu “… đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm…”.
Ba là, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền đối với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và người lao động, trong đó, tập trung tuyên truyền quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội; trách nhiệm và quyền lợi khi đóng bảo hiểm xã hội; phương thức, thủ đoạn cũng như hậu quả, tác hại của việc trốn đóng bảo hiểm xã hội…, đồng thời kết hợp với việc thống kê, thông báo rộng rãi đối với các đơn vị chậm nộp bảo hiểm xã hội để đạt được hiệu quả kép trong hoạt động tuyên truyền.
Bốn là, tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả quy chế phối hợp giữa công an và cơ quan bảo hiểm xã hội các cấp trong việc kịp thời trao đổi thông tin, thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, hỗ trợ xác minh. Nhanh chóng xác minh, điều tra làm rõ, kịp thời xử lý nghiêm những hành vi vi phạm, thu hồi triệt để tài sản thiệt hại để bảo đảm tính hiệu quả của chính sách, pháp luật; kết hợp với việc tuyên truyền về công tác xử lý các vụ việc, vi phạm điển hình để người sử dụng lao động và người lao động nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
Bên cạnh đó, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra với cơ quan thanh tra bảo hiểm xã hội nhằm góp phần nâng cao hiệu quả phân loại nguồn tin ban đầu, sớm phân loại và xác định vụ việc có dấu hiệu tội phạm để tập trung xác minh, giải quyết, nâng cao vai trò của Cơ quan thanh tra bảo hiểm xã hội trong thực hiện các nhiệm vụ cụ thể.
Năm là, tăng cường công tác điều tra, xử lý đối với tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động theo Điều 216 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh nghiên cứu, tháo gỡ vướng mắc, định hướng điều tra, giải quyết và lấy vụ án cụ thể làm căn cứ điển hình, nhân rộng đến các địa phương trong cả nước.
Sáu là, phát huy vai trò của các tổ chức, đoàn thể trong cơ quan, doanh nghiệp, đặc biệt, cần phát huy vai trò của công đoàn trong bảo vệ quyền lợi của người lao động và thực hiện tố giác tội phạm đối với hành vi trốn đóng bảo hiểm của cơ quan, tổ chức. Trên thực tế, đã có văn bản hướng dẫn về việc tổ chức công đoàn có vai trò trong việc khởi kiện, bảo vệ quyền lợi của người lao động trong việc người sử dụng lao động chậm nộp, trốn nộp bảo hiểm cho người lao động, tuy nhiên, với góc độ tố tụng hình sự, tổ chức công đoàn và người lao động chưa phát huy hết hiệu quả trong việc tố giác tội phạm, vì vậy, trong thời gian tới, cần tăng cường phát huy vai trò của các lực lượng này bởi việc người sử dụng lao động trốn đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế sẽ tác động trực tiếp đến quyền lợi của người lao động, quyền lợi và trách nhiệm của công đoàn tổ chức đại diện người lao động.
ThS. Lê Thị Ly
Đại học Cảnh sát nhân dân
[1]. Xem: Các khoản 10, 11, 12, 13 Điều 2 Nghị quyết số 05/2019/NQ-HĐTP ngày 15/8/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 214 về tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, Điều 215 về tội gian lận bảo hiểm y tế và Điều 216 về tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động của Bộ luật Hình sự.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 392), tháng 11/2023)