1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về tiền lương trong doanh nghiệp
Việc hoàn thiện pháp luật về tiền lương ở Việt Nam được xác định là một quá trình liên tục, lâu dài với những lộ trình và giải pháp thích hợp, gắn với quan điểm chỉ đạo của Đảng trong mỗi giai đoạn xây dựng, phát triển Nhà nước pháp quyền, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (năm 2006) và lần thứ XI (năm 2011) đều nêu rõ những chủ trương, phương hướng lớn về phát triển thị trường lao động lành mạnh, trong đó có nêu rõ trách nhiệm của các bên trong đàm phán, thỏa thuận các nội dung có liên quan đến quan hệ lao động, tiền lương, thiết lập cơ chế ba bên hiệu quả, minh bạch. Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 5/6/2008 của Ban chấp hành Trung ương về tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp tại Mục 5 với nội dung: “Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và tạo lập môi trường để đại diện người sử dụng lao động, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề hoạt động có hiệu quả nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong thực thi pháp luật và chính sách về lao động, nâng cao trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc chăm lo lợi ích, đời sống vật chất tinh thần cho người lao động, thực hiện tốt cơ chế phối hợp ba bên ở cấp ngành và địa phương về quan hệ lao động, thúc đẩy và ký kết thỏa ước lao động tập thể cấp ngành, cấp khu vực”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa XII cũng nêu: “Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước trong từng giai đoạn. Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế. Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh”[1]. Nghị quyết số 97/NQ-CP của Chính phủ ngày 26/12/2014 ban hành chương trình hành động của Chính phủ cũng nêu rõ: “... Hoàn thiện các thiết chế về quan hệ lao động; củng cố và nâng cao năng lực của tổ chức đại diện người lao động, tổ chức đại diện người sử dụng lao động trong việc phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước hoàn thiện chính sách pháp luật về lao động và hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ”[2]...
Từ các quan điểm định hướng ở trên, Đảng và Nhà nước ta xác định việc xây dựng một khung khổ pháp lý riêng để điều chỉnh vấn đề tiền lương trong doanh nghiệp nhất định phải được tiến hành bằng một lộ trình vững vàng để bao quát tất cả các khía cạnh chính trị, kinh tế, xã hội. Quá trình hoàn thiện khung pháp luật phải dựa trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài, bảo đảm phù hợp với điều kiện, đặc thù của Việt Nam để có khuôn khổ pháp luật đồng bộ, thống nhất về tiền lương trong doanh nghiệp ở Việt Nam, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế. Theo tinh thần của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khóa XII về cải cách chính sách tiền lương, cải cách chính sách bảo hiểm xã hội (cùng một số nội dung khác), việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về tiền lương trong lĩnh vực doanh nghiệp là cần thiết, nhằm phục vụ cho việc thực hiện một cách khoa học, khách quan trong chính sách pháp luật về tiền lương của người lao động, góp phần đẩy lùi các yếu kém, bất cập, mâu thuẫn trong thực thi pháp luật về tiền lương, về bảo hiểm xã hội.
2. Mục tiêu hoàn thiện pháp luật về tiền lương trong doanh nghiệp
Việc hoàn thiện pháp luật về tiền lương trong doanh nghiệp cần hướng tới các mục tiêu sau đây:
- Tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất về tiền lương trong doanh nghiệp trên cơ sở kế thừa những quy định của Luật và các văn bản dưới Luật đã ban hành có liên quan, đang thực hiện ổn định và có hiệu quả, đồng thời, bổ sung thêm những vấn đề đang diễn ra trong thực tiễn cần phải được pháp luật điều chỉnh ở một mức độ phù hợp dưới sự quản lý của Nhà nước.
- Phân định, làm rõ chức năng, quyền hạn và nghĩa vụ của người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước trong cơ chế ba bên trong các quan hệ có liên quan đến tiền lương trong doanh nghiệp. Cơ chế ba bên là nơi các bên có quyền thể hiện quan điểm, đám phán và có thể đạt được sự thống nhất cao độ các yêu cầu, đòi hỏi của nhau. Thông qua cơ chế này, các xung đột sẽ được giảm thiểu ở mức độ đáng kể. Mặt khác, vai trò trung gian của Nhà nước sẽ giữ được sự công bằng nhất định, đồng thời cũng thể hiện sự giám sát của Nhà nước đối với các thỏa thuận có thể làm thiệt hại đến các bên, đến đường lối, chính sách của Nhà nước
- Khắc phục tình trạng can thiệp, chỉ định của Nhà nước vào quá trình thỏa thuận, đàm phán trong cơ chế ba bên để đảm bảo sự dân chủ. Coi trọng tổ chức đại diện của các bên như là những đối tác giải quyết các vấn đề có liên quan đến nhau, một kênh phản biện trong xây dựng và thực thi các chính sách, chế độ, pháp luật.
- Pháp luật phải trở thành công cụ, phương tiện chính thống điều chỉnh, công nhận các thỏa thuận của các bên, bên cạnh việc thúc đẩy quá trình dân chủ hóa đời sống một cách lành mạnh, thực chất, đồng thời, pháp luật cũng phải trở thành công cụ để các bên đàm phán, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước.
3. Định hướng hoàn thiện pháp luật về tiền lương trong doanh nghiệp
Về mặt hình thức, pháp luật về tiền lương trong doanh nghiệp đòi hỏi phải nghiên cứu, rà soát toàn bộ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, xác định cụ thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các nội dung có liên quan đến tiền lương trong doanh nghiệp, từ vấn đề cơ sở pháp lý cho việc thỏa thuận, đàm phán, thống nhất trong cơ chế ba bên, đến các căn cứ xây dựng, ban hành chế độ tiền lương, thang bảng lương, định mức lao động, cơ chế điều chỉnh lương tối thiểu, chế độ trách nhiệm... để từ đó xác định hình thức văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các quy phạm điều chỉnh các nội dung nói trên. Xây dựng các quy phạm pháp luật thống nhất, phù hợp, chất lượng cao chứa đựng trong các văn bản có giá trị pháp lý có giá trị pháp đủ tầm để điều chỉnh các nội dung có liên quan đến tiền lương trong doanh nghiệp. Trên cơ sở xác lập mối tương quan trong quan hệ với các chủ thể như tổ chức đại diện người lao động, với các tổ chức thành viên, với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, với các chủ thể có yếu tố nước ngoài, phi chính phủ. Nghiên cứu, thảo luận và thông qua văn bản quy phạm pháp luật về các tổ chức hội - một trong những cơ sở pháp lý quan trọng thể chế hóa các quyền tự do, dân chủ mà Hiến pháp đã ghi nhận.
Về mặt nội dung của pháp luật về tiền lương trong doanh nghiệp đòi hỏi các quy phạm pháp luật phải xác định được những quan hệ xã hội, các vấn đề có liên quan đến tiền lương trong doanh nghiệp có tầm quan trọng cần điều chỉnh bằng pháp luật, đồng thời phản ánh sự điều chỉnh một cách toàn diện, phù hợp, thống nhất, trên một nền tảng kỹ thuật pháp lý cao, bền vững. Chú ý xây dựng các quy phạm pháp luật tiền lương trong doanh nghiệp trong một văn bản có giá trị pháp lý cao, ghi nhận mục tiêu và phạm vi điều chỉnh, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ về tiền lương trong doanh nghiệp. Nội dung các quy phạm pháp luật phải được thể hiện một cách khoa học, tiến bộ về các thuật ngữ chuyên môn, chuyên ngành, chuyên dùng, thể hiện hết bản chất của các sự vật, hiện tượng mà nó quy định. Nghiên cứu cho thấy, còn nhiều quy định về thuật ngữ pháp lý còn chưa chặt chẽ, thiếu thống nhất, có phạm vi hẹp so với bản chất của chúng. Kết cấu nội dung pháp luật về tiền lương trong doanh nghiệp phải thể hiện đầy đủ các điều khoản, trong đó điều chỉnh từ các quy định chung đến vấn đề nguyên tắc, căn cứ, quyền và nghĩa vụ của các bên, về tổ chức Hội đồng Tiền lương quốc gia, chế độ trách nhiệm và các nội dung khác có liên quan. Pháp luật về tiền lương trong doanh nghiệp phải thể hiện các nội dung chính sau đây:
- Các quy định nguyên tắc chung, mục đích, yêu cầu, điều kiện, mục đích của tiền lương trong doanh nghiệp;
- Các quy định về căn cứ để xây dựng, ban hành, điều chỉnh tiền lương trong doanh nghiệp;
- Các quy định về thang lương, bảng lương, định mức lao động;
- Các quy định về Hội đồng Tiền lương quốc gia;
- Các quy định về quản lý nhà nước, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực thi pháp luật về tiền lương trong doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức đại diện người lao động, tổ chức đại diện người sử dụng lao động trong hoạt động của cơ chế hai bên, cơ chế ba bên. Trong quan hệ với các chủ thể trên, khả năng đạt được những yêu cầu, mong muốn, đòi hỏi của mỗi chủ thể là hết sức khó khăn, buộc các chủ thể phải hạ bớt những yêu cầu, đòi hỏi về lợi ích của mình, do đó, quá trình thương lượng, thỏa thuận, thống nhất thường gian nan. Với vị thế chính trị của mình, các chủ thể là cơ quan nhà nước có thẩm quyền, kể cả tổ chức công đoàn đại diện cho tập thể người lao động, có thể tạo sức ép tương đối lớn lên các cuộc thương lượng, làm cho quá trình tự do ý chí, tự do thể hiện ý chí của tổ chức đại diện người sử dụng lao động có thể bị ảnh hưởng, sự công bằng, bình đẳng, dân chủ trong quan hệ giữa các chủ thể có thể không đạt được một cách đầy đủ.
4. Xây dựng và ban hành Luật về tiền lương trong doanh nghiệp
Theo nghiên cứu của tác giả, nhiều quốc gia trên thế giới đã nghiên cứu, ban hành Luật về tiền lương, coi trọng vấn đề này một cách thỏa đáng để nâng tầm điều chỉnh bằng một văn bản có giá trị pháp lý cao. Ở Việt Nam, để thúc đẩy nhanh quá trình dân chủ mọi mặt của đời sống, trong đó có quan hệ lao động, phát huy khả năng phản biện chính sách, pháp luật, lành mạnh hóa quan hệ lao động, việc làm cần thiết hiện nay là đưa dự thảo Luật về tiền lương trong doanh nghiệp vào chương trình nghị sự của Quốc hội và cần phải thông qua, ban hành văn bản này, tạo ra cơ sở pháp lý cho vần đề tiền lương trong doanh nghiệp trở thành một nội dung có vai trò to lớn, có tầm quan trọng góp phần xây dựng môi trường lao động lành mạnh, minh bạch, trong đó, cần cụ thể hóa các nội dung sau:
- Về phạm vi điều chỉnh, Luật về tiền lương trong doanh nghiệp điều chỉnh đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân có sử dụng lao động thông qua hợp đồng lao động.
- Về đối tượng điều chỉnh, Luật này điều chỉnh vấn đề tiền lương trong các loại hình doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân có sử dụng lao động thông qua hợp đồng lao động.
- Về nguyên tắc tổ chức, Luật này đảm bảo các bên trong quan hệ lao động hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Về căn cứ xây dựng thang lương, bảng lương, định mức lao động, Luật này đảm bảo dân chủ, bình đẳng, tự nguyện, loại trừ mọi sự áp đặt, can thiệp từ bất kỳ cá nhân, tổ chức, cơ quan nào.
- Về căn cứ xây dựng và điều chỉnh mức lương tối thiểu, theo đó yêu cầu về sự công khai, minh bạch, sát thực tiễn.
- Về thành lập, thành phần, hoạt động của Hội đồng Tiền lương quốc gia, những tiêu chí, tôn chỉ thành lập tổ chức, quy định trách nhiệm của các thành viên.
- Quy định về hiệu lực và trách nhiệm thi hành luật của các chủ thể có liên quan.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần rà soát văn bản quy phạm pháp luật như Bộ luật Lao động, Luật Doanh nghiệp, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, các nghị định về tổ chức và hoạt động của các đơn vị, cơ quan hành chính sự nghiệp công lập có sử dụng lao động hợp đồng, các đơn vị tổ chức của nhà nước đang trong tiến trình tự chủ tài chính… nhằm tìm ra những bất hợp lý về công tác tiền lương đối với người lao động theo cơ chế hợp đồng lao động, từ đó có phương án điều chỉnh, sửa đổi các quy định đó cho phù hợp.
Học viện Tài chính
[1]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường cũng nêu rõ quan điểm chỉ đạo ở Mục 1 Phần II Quan điểm chỉ đạo và mục tiêu...
[2]. Nghị quyết số 97/NQ-CP của Chính phủ ngày 26/12/2014 ban hành chương trình hành động của Chính phủ triển khai Kết luận số 96-KL/TW ngày 7/4/2014 của Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy mạnh Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 5/6/2008 của Ban Bí thư khóa X về tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp, tại Mục 2 Phần I.