1. Khái quát về bầu cử và vận động bầu cử
Trong đời sống xã hội của các quốc gia hiện đại trên thế giới, bầu cử có một vị trí và ý nghĩa chính trị đặc biệt quan trọng. Bầu cử là phương thức hình thành bộ máy nhà nước hiện đại, trong đó, nhân dân lựa chọn và ủy thác quyền lực cho những người mình bầu ra. Nhân dân - với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước có quyền lựa chọn ai thay mặt mình tham gia vào công việc của Nhà nước. Cách thức nhân dân thể hiện quyết định của mình là lá phiếu bầu cử. Chủ thể nào được lựa chọn thông qua bầu cử, chủ thể đó nhận quyền lực từ nhân dân. Do đó, bầu cử còn là thước đo mức độ dân chủ của một quốc gia, là “trái tim của nền dân chủ”[1]. Quyền bầu cử thường được ghi nhận trong Hiến pháp của các quốc gia cũng như các điều ước quốc tế quan trọng về quyền con người[2].
Vận động bầu cử là một công đoạn không thể thiếu trong quá trình bầu cử, được coi như “linh hồn của bầu cử tiến bộ và công bằng”[3]. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, thuật ngữ “vận động tranh cử” được sử dụng với nghĩa tương ứng. Vận động bầu cử là việc các ứng cử viên thông qua những hoạt động nhất định nhằm thuyết phục cử tri, để cử tri tin và bỏ phiếu bầu cho mình. Bản chất của bầu cử là sự lựa chọn của cử tri. Vận động bầu cử cung cấp thông tin và cơ hội cho cử tri để có được sự lựa chọn tối ưu. Có thể nhận thấy vận động bầu cử có những vai trò quan trọng trong bầu cử.
Thứ nhất, vận động bầu cử đảm bảo tính cạnh tranh của cuộc bầu cử. Cạnh tranh là tiêu chuẩn quan trọng được thừa nhận rộng rãi trong các cuộc bầu cử dân chủ và công bằng. “Theo nhận thức phổ biến trên thế giới, một cuộc bầu cử dân chủ bao giờ cũng phải là một cuộc bầu cử mang tính cạnh tranh. Triệt tiêu yếu tố cạnh tranh, bầu cử mất đi ý nghĩa đích thực của nó”[4]. Bầu cử không phải là sự thỏa hiệp. Bản chất của bầu cử là cuộc cạnh tranh mà kết quả phụ thuộc vào việc cử tri chọn ai. Cạnh tranh trong bầu cử phải là cạnh tranh công bằng - tức đảm bảo sự lành mạnh và tuân thủ tuyệt đối những quy định của pháp luật. Người dân khó có thể lựa chọn được người đủ tâm và tầm đại diện cho mình nếu cuộc bầu cử đó không có tính cạnh tranh giữa các ứng cử viên. Thông qua vận động bầu cử, cử tri nhận biết khả năng đại diện của các ứng viên, từ đó, sẽ có khả năng lựa chọn đại biểu tốt hơn. Nếu không có cạnh tranh, rất có thể kết quả bầu cử đơn giản chỉ là sự thỏa hiệp hoặc sự sắp đặt.
Thứ hai, đối với các ứng cử viên, vận động bầu cử là nơi để ứng cử viên thể hiện năng lực chính trị của mình. Có thể coi đây là “phiên trình diễn” của ứng cử viên, là nơi để ứng cử viên thể hiện sự chuyên nghiệp của mình để “tỏa sáng” trong mắt cử tri. Ứng cử viên nào thể hiện tốt hơn sẽ thu hút được sự chú ý của cử tri, thuyết phục được cử tri rằng họ xứng đáng là người đại diện. Cử tri, với lá phiếu của mình, trên cơ sở đó sẽ quyết định ai trúng cử.
Thứ ba, đối với các cử tri, vận động bầu cử là kênh nối giữa ứng cử viên với cử tri, tạo điều kiện để cử tri tiếp xúc với người ứng cử, hiểu rõ hơn người ứng cử, trên cơ sở đó cân nhắc, lựa chọn, bầu những người đủ tiêu chuẩn làm đại biểu dân cử. Vận động bầu cử gia tăng tính chuyên nghiệp của các cử tri. Thông qua vận động bầu cử, cử tri có thông tin về các ứng cử viên để từ đó, lá phiếu cử tri là sự lựa chọn chứ không phải cảm tính. Đồng thời, vận động bầu cử tạo thói quen ứng xử dân chủ và thu hút quần chúng vào hoạt động chính trị, nâng cao tính trách nhiệm và nhận thức chính trị cho cử tri.
Thứ tư, đối với nhiều quốc gia trên thế giới, bầu cử là sự cạnh tranh giữa các đảng phái, nên vận động bầu cử là bước mà sự cạnh tranh này thể hiện rất rõ, thậm chí rất khốc liệt. Các ứng cử viên, các đảng phái có thể sử dụng vận động tranh cử như một phương thức hữu hiệu nhằm kiểm tra, giám sát lẫn nhau. Vận động tranh cử ở những nước này còn bao gồm cả sự phê bình, chỉ trích qua lại của những ứng viên về đường lối tranh cử của các đối thủ. Các ứng cử viên và các lực lượng hậu thuẫn có thể tìm mọi cách để thắng cử, kể cả gian lận bầu cử. Do đó, vận động bầu cử trước hết là biện pháp nhằm kiểm soát hoạt động của đối thủ, tiến tới loại bỏ đối thủ.
2. Pháp luật Việt Nam về vận động bầu cử
Với vai trò, ý nghĩa quan trọng, vận động bầu cử được quy định chặt chẽ trong hệ thống pháp luật các quốc gia và là hoạt động rất được coi trọng trong thực tiễn công tác bầu cử. Pháp luật bầu cử ở Việt Nam hiện nay quy định một số nội dung cơ bản về vận động bầu cử:
Thứ nhất, về kinh phí dành cho vận động bầu cử
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chi phí dành cho vận động bầu cử hoàn toàn lấy từ ngân sách nhà nước. Trong giới hạn của vận động bầu cử cũng có quy định cấm sử dụng hoặc hứa tặng, cho tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất để lôi kéo, mua chuộc cử tri (khoản 4 Điều 68 Luật Bầu của đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015). Điều này hoàn toàn phù hợp bởi vì: Một là, bảo đảm sự bình đẳng và công bằng trong bầu cử. Bầu cử là quyền của dân chúng chứ không phải đặc quyền của bất kỳ tầng lớp, giai cấp nào. Vì thế, các ứng cử viên không được dùng ưu thế về vật chất của mình để vận động cử tri bỏ phiếu cho mình. Hai là, xuất phát từ bản chất nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Bầu cử là hoạt động tạo lập chính quyền bằng phương thức dân chủ. Đây là công việc của Nhà nước. Ba là, ở Việt Nam chỉ có một lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội, đó là Đảng cộng sản Việt Nam. Ở nước ta, bầu cử không phải là sự cạnh tranh giữa các đảng phái nên không có sự chạy đua, kể cả về tiềm lực kinh tế.
Thứ hai, về hình thức vận động bầu cử
Pháp luật nước ta quy định người ứng cử thực hiện vận động bầu cử thông qua hai hình thức. Hình thức thứ nhất là gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri tại hội nghị tiếp xúc cử tri ở địa phương nơi mình ứng cử. Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh chủ trì phối hợp với Ủy ban nhân dân (UBND) ở đơn vị bầu cử tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri cho những người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) cấp tỉnh. Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện, cấp xã phối hợp với UBND cấp xã tại đơn vị bầu cử tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri cho những người ứng cử đại biểu HĐND cấp mình. Thành phần tham dự hội nghị tiếp xúc cử tri gồm đại diện các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cử tri ở địa phương. Hình thức thứ hai là thông qua phương tiện thông tin đại chúng. Với hình thức này, người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu HĐND trình bày với cử tri về dự kiến chương trình hành động của mình nếu được bầu làm đại biểu khi trả lời phỏng vấn trên các phương tiện thông tin đại chúng và trên trang thông tin điện tử về bầu cử.
Như vậy, trong cả hai hình thức vận động bầu cử, người ứng cử đều phải báo cáo với cử tri chương trình hành động của mình nếu được bầu làm đại biểu. Riêng vận động theo hình thức tiếp xúc cử tri thì có công đoạn khá quan trọng là cử tri nêu ý kiến, kiến nghị, đề đạt nguyện vọng với người ứng cử. Cử tri và người ứng cử trao đổi ý kiến có tính chất đối thoại theo nguyên tắc dân chủ, thẳng thắn, cởi mở về những vấn đề hai bên cùng quan tâm.
Thứ ba, về giới hạn của vận động bầu cử
Ở Việt Nam, những hành vi sau đây bị cấm trong vận động bầu cử (Điều 68 Luật Bầu của đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015):
- Lợi dụng vận động bầu cử để tuyên truyền trái với Hiến pháp và pháp luật hoặc làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền, lợi ích hợp pháp khác của tổ chức, cá nhân khác.
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn để sử dụng phương tiện thông tin đại chúng trong vận động bầu cử.
- Lợi dụng vận động bầu cử để vận động tài trợ, quyên góp ở trong nước và nước ngoài cho tổ chức, cá nhân mình.
- Sử dụng hoặc hứa tặng, cho, ủng hộ tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất để lôi kéo, mua chuộc cử tri.
Từ những quy định của pháp luật về vận động bầu cử như đã trình bày, có thể nhận thấy trong chế độ bầu cử ở Việt Nam, vận động bầu cử đã được ghi nhận là một công đoạn không thể thiếu. Tinh thần lớn nhất trong vận động bầu cử ở nước ta là sự bình đẳng giữa các ứng cử viên. Các ứng cử viên, không phân biệt về tài sản, thành phần xã hội, địa vị nghề nghiệp… đều có quyền tham gia vận động bầu cử và tuân thủ pháp luật bầu cử như nhau. Điều này khác với nhiều quốc gia trên thế giới, khi mà ứng cử viên có có tài sản hoặc địa vị có thể dành ưu thế riêng khi tranh cử.
Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam về vận động bầu cử và thực tiễn thi hành cũng bộc lộ một số tồn tại nhất định:
Một là, nội dung vận động bầu cử còn quy định khá đơn giản, bao gồm: Từng người ứng cử báo cáo với cử tri về chương trình hành động của mình nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; cử tri nêu ý kiến, đề đạt nguyện vọng của mình với những người ứng cử; người ứng cử và cử tri trao đổi dân chủ, thẳng thắn và cởi mở những vấn đề cùng quan tâm. Nếu qua phương tiện thông tin đại chúng thì nội dung vận động bầu cử chỉ là việc ứng cử viên trả lời phỏng vấn về dự kiến chương trình hành động của mình nếu được bầu làm đại biểu. Với nội dung như vậy, giữa cử tri và ứng cử viên dường như chưa đủ một không gian để đối thoại, chất vấn một cách thẳng thắn. Cũng vì thế mà ứng cử viên chưa có nhiều cơ hội để “phô diễn” hết năng lực đại diện của mình trước cử tri và ngược lại, cử tri không thể dựa vào vận động bầu cử để có được sự lựa chọn tối ưu.
Hai là, hình thức vận động bầu cử ở Việt Nam còn khá đơn giản. Pháp luật chỉ quy định hai hình thức vận động là thông qua hội nghị cử tri và thông qua phương tiện thông tin đại chúng. Các hình thức vận động bầu cử khác không được pháp luật quy định và không được thừa nhận trên thực tế.
Ba là, về tiếp xúc cử tri trong vận động bầu cử. Đây là hình thức vận động bầu cử trực tiếp giữa ứng cử viên và cử tri nơi ứng cử, tuy nhiên, cả về thực tiễn và pháp lý còn tồn tại một số vấn đề sau: Trình tự, thủ tục tiếp xúc chưa tạo điều kiện để người ứng cử có cơ hội thể hiện được năng lực, trình độ, bản lĩnh của mình; thành phần tham dự không phải tất cả các cử tri mà chỉ là đại diện một số cơ quan đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức đoàn thể; có sự chênh lệch giữa các tỉnh, thành phố về số lượng cuộc tiếp xúc cử tri; việc tiếp xúc cử tri đôi khi còn sơ sài, hình thức.
Bốn là, về vận động bầu cử thông qua phương tiện truyền thông đại chúng. Thực tiễn cho thấy, việc đăng tải các thông tin về người ứng cử trên các phương tiện truyền thông đại chúng ở địa phương còn hạn chế. Thường các địa phương chỉ phát sóng truyền hình một vài lần và đăng tải một lần tóm tắt chương trình hành động của ứng cử viên trên báo địa phương trong suốt quá trình tổ chức vận động bầu cử[5]. Ngoài ra, thực tế cho thấy một số ứng cử viên có cơ hội và lợi thế trong vận động bầu cử đã vô tình “lạm dụng” phương tiện thông tin đại chúng. Đó là các ứng cử viên là lãnh đạo, ứng cử viên ở các ngành, lĩnh vực có báo chuyên ngành; ứng cử viên là người có chức sắc ở các địa phương.
3. Một số kiến nghị nhằm đổi mới vận động bầu cử ở Việt Nam hiện nay
Đổi mới vận động bầu cử không chỉ góp phần tạo nên cuộc bầu cử tiến bộ, dân chủ, công bằng mà còn hướng tới mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam. Để đổi mới vận động bầu cử ở Việt Nam, cần lưu ý một số nội dung sau:
Thứ nhất, cần nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò, ý nghĩa của vận động bầu cử. Vận động bầu cử không phải là hình thức, chiếu lệ cho có mà đó là “linh hồn” của bầu cử, là nhân tố làm nên một cuộc bầu cử tiến bộ và công bằng. Phải coi vận động bầu cử là một kênh cung cấp thông tin quan trọng cho cử tri về bầu cử, là sợi dây gắn kết giữa cử tri và ứng cử viên, để từ đó cử tri tâm huyết với bầu cử và tha thiết với lá phiếu của mình. Thay đổi nhận thức về vận động bầu cử cũng đồng nghĩa với việc cần phải thừa nhận cạnh tranh là một thuộc tính của bầu cử dân chủ. Với quy định hiện nay về vận động bầu cử thì hoạt động này còn khá đơn điệu và hình thức. Cần tạo điều kiện cho các ứng cử viên có thể cạnh tranh một cách lành mạnh và bình đẳng trong vận động bầu cử.
Thứ hai, mở rộng các hình thức vận động bầu cử.
Ngoài các hình thức là tiếp xúc cử tri và trả lời phỏng vấn trên các phương tiện thông tin đại chúng, có thể xem xét quy định bổ sung các hình thức vận động bầu cử khác như vận động bầu cử trên internet. Điều này cũng phù hợp với bối cảnh hiện nay, khi khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ và đạt những thành tựu to lớn. Cơ quan, tổ chức phụ trách bầu cử có thể mở một ngân hàng dữ liệu, các trang web riêng cho các ứng cử viên, trong đó các thông tin về họ được lưu trữ và sẵn sàng cung cấp một cách đầy đủ. Cử tri có nhu cầu tìm hiểu về ứng cử viên nào chỉ cần sử dụng điện thoại hoặc máy tính là có đầy đủ thông tin về ứng cử viên đó. Ngoài ra, cũng nên tạo cơ hội cho ứng cử viên được tổ chức vận động bầu cử, chẳng hạn bằng các hình thức như trực tiếp gặp gỡ với cử tri, trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc các hình thức “quảng cáo” khác ở một mức độ nhất định. Tất nhiên, sự bình đẳng và minh bạch trong bầu cử vẫn phải được đảm bảo. Trong trường hợp này, những hoạt động vận động bầu cử vẫn phải bị kiểm soát bởi một tổ chức phụ trách bầu cử có thẩm quyền để đảm bảo tính chính xác và trung thực.
Thứ ba, tăng cường hiệu quả của vận động bầu cử.
Tính thực chất của vận động bầu cử là vấn đề rất trăn trở trong vận động bầu cử ở Việt Nam hiện nay. Đối với hình thức tiếp xúc cử tri, cần quy định thống nhất về tiếp xúc cử tri: Số lượng cuộc tiếp xúc, số lượng tối thiểu ứng cử viên tham dự; nội dung, hình thức, thời gian ứng cử viên trình bày chương trình hành động trước hội nghị tiếp xúc cử tri; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri; tăng cường giám sát của cử tri đối với đại biểu thông qua chương trình hành động bởi đây là lời hứa hẹn khi vận động bầu cử. Trong cuộc tiếp xúc, cần tăng cường trao đổi tranh luận giữa các ứng cử viên, đối thoại giữa ứng cử viên với cử tri về những vấn đề cùng quan tâm, tạo điều kiện cho ứng cử viên thể hiện được năng lực chính trị của mình. Ngoài ra, cũng cần mở rộng đối tượng cử tri tham dự hội nghị tiếp xúc cử tri. Càng nhiều cử tri quan tâm và tham dự, vận động bầu cử càng phát huy vai trò của mình, càng chứng tỏ tính dân chủ và thực chất của cuộc bầu cử.
Bên cạnh đó, cần phát huy vai trò tích cực của các phương tiện thông tin đại chúng trong quá trình bầu cử, đặc biệt là trong việc cung cấp thông tin về các ứng cử viên. Hiện nay, các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam chủ yếu mới chỉ dừng ở việc đưa tin một cách chung chung, còn ít quan tâm đến các ứng cử viên cụ thể. Việc trả lời phỏng vấn trên phương tiện thông tin đại chúng cũng không đồng đều nhau giữa các ứng cử viên. Cần quy định cụ thể về trách nhiệm của các phương tiện thông tin đại chúng trong vận động bầu cử, về số lượng lần trả lời phỏng vấn của các ứng cử viên. Các phương tiện thông tin đại chúng cần phải cung cấp những thông tin có chiều sâu hơn, tiến tới phân tích những điểm mạnh, điểm yếu của từng ứng cử viên để giúp cử tri định hướng cho lựa chọn của mình trong ngày bầu cử. Cần kiểm soát các phương tiện thông tin đại chúng để đảm bảo tính dân chủ và trung thực trong vận hành chứ không bị lợi dụng, bị biến tướng, trở thành công cụ cho một nhóm người, nhóm lợi ích.
Thứ tư, pháp luật cần cụ thể hóa về cơ chế xử lý các hành vi bị cấm trong vận động bầu cử như “mua phiếu” dưới các hình thức tài trợ, ủng hộ, thiện nguyện; quy định trách nhiệm của các ứng cử viên trong vận động bầu cử; quy định trách nhiệm của các tổ chức phụ trách bầu cử trong giám sát hoạt động vận động bầu cử.
Thứ năm, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền liên quan đến vận động bầu cử. Đối với cuộc bầu cử nói chung, công tác thông tin tuyên truyền là một trong những phương thức quan trọng để người dân nhận thức đầy đủ về cuộc bầu cử. Từ đó, tinh thần làm chủ và trách nhiệm công dân được nêu cao, nhân dân tự giác tham gia bầu cử và dành tâm sức của mình lựa chọn ra những đại biểu thực sự ưu tú để đại diện cho nhân dân. Trong đó, thông tin liên quan đến vận động bầu cử cần được cung cấp kịp thời và tuyên truyền sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện khó khăn. Trên thực tế, không phải cử tri nào cũng được tham dự vào hội nghị tiếp xúc cử tri. Hình thức vận động thông qua phương tiện thông tin đại chúng có tính mặc dù có tính phổ biến hơn, song, không phải cử tri nào cũng biết để theo dõi. Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan là phải cung cấp thông tin cho các cử tri một cách đầy đủ về hoạt động vận động bầu cử ở địa phương, nhất là chương trình phát sóng phần trả lời phỏng vấn của các ứng cử viên, có như vậy mới phát huy vai được vai trò, ý nghĩa thực sự của vận động bầu cử.
Trường Đại học Luật Hà Nội
- Lijphart, A. (1992), “Democratization and Constitutional Choices in Czecho-Slovakia, Hungary and Poland 1989-1991”, Journal of Theoretical Politics, 4(2).