Tham dự Hội thảo có đại diện một số bộ, ngành Trung ương, Sở Tư pháp, Đoàn luật sư, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, các tổ chức hành nghề luật sư và các các đơn vị có liên quan đến công tác xây dựng, rà soát, hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật trực thuộc Bộ Tư pháp. Ông Phan Chí Hiếu - Thứ trưởng Bộ Tư pháp và bà Đặng Kim Hoa - Phó Cục trưởng, Cục Bổ trợ tư pháp đồng chủ trì Hội thảo.
Hội thảo được tổ chức với mục đích nghiên cứu, rà soát, trao đổi nhằm đánh giá mức độ phù hợp, tính khả thi và hiệu quả triển khai các quy định của Luật Luật sư với thực tế thực hiện, pháp luật có liên quan và thông lệ quốc tế; xác định rõ các nội dung bất cập, hạn chế, mâu thuẫn, chồng chéo, các khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện và nguyên nhân; đề xuất giải pháp cụ thể về việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới Luật Luật sư thay thế Luật Luật sư năm 2006.
Luật Luật sư năm 2006 được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 22/06/2006 tại kỳ họp thứ 9 là mốc son pháp lý quan trọng hoàn thiện thể chế về luật sư và nghề luật sư ở nước ta. Ngay sau khi Luật Luật sư được ban hành, các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật cũng được ban hành kịp thời, đúng thời hạn, bảo đảm đúng định hướng, lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, hợp hiến, hợp pháp, khả thi, đưa các quy định của pháp luật về luật sư vào cuộc sống hiệu quả, đáp ứng yêu cầu thực tế. Trong quá trình triển khai thi hành Luật Luật sư, Bộ Tư pháp thường xuyên rà soát, kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc tham mưu sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật về luật sư đúng thẩm quyền, phù hợp, thống nhất, đồng bộ với văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Tư pháp, Bộ, cơ quan ngang Bộ và các cơ quan cấp trên đã ban hành trước đó, cơ bản phù hợp với nhu cầu của tổ chức và hoạt động luật sư, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, tiếp cận với thông lệ hành nghề luật sư quốc tế, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn vào thời điểm ban hành văn bản.
Về cơ bản, thể chế pháp luật về tổ chức và hoạt động của luật sư thời gian qua đã từng bước được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý cho luật sư và tổ chức hành nghề luật sư phát triển cả về số lượng và chất lượng, trong đó có đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập quốc tế, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện Luật Luật sư đã thể hiện một số bất cập, hạn chế, cụ thể như sau:
(i) Còn một số chủ trương, chính sách phát triển nghề luật sư chưa được thể chế hóa hay triển khai thực hiện tại các bộ, ngành, địa phương; một số quy định chưa được hướng dẫn cụ thể hoặc không còn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, thực tiễn phát triển nghề luật sư ở Việt Nam, đặc biệt về tiêu chuẩn, điều kiện trở thành luật sư, vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư. Trong hoạt động hành nghề, luật sư vẫn còn gặp một số khó khăn khi tham gia tố tụng.
(ii) Phẩm chất đạo đức, ý thức tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp chưa thực sự trở thành kim chỉ nam cho mọi hành vi ứng xử của luật sư. Còn tình trạng một số luật sư có hành vi tiêu cực trong hành nghề cũng như các hoạt động chính trị, xã hội khác hoặc lợi dụng quyền hành nghề luật sư thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, tác động, lôi kéo người dân thực hiện khiếu nại, khiếu kiện, tụ tập đông người trái pháp luật, gây mất trật tự, an toàn xã hội.
(iii) Đa số các tổ chức hành nghề luật sư có quy mô nhỏ, quản trị, điều hành còn yếu kém, tính chuyên nghiệp chưa cao, chưa thực sự tạo được niềm tin đối với khách hàng, cơ quan, tổ chức.
(iv) Công tác quản lý nhà nước đối với tổ chức, hoạt động hành nghề của luật sư còn một số hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang diễn ra. Chất lượng đầu vào của luật sư chưa có sự kiểm soát chặt chẽ. Cơ quan quản lý nhà nước một số địa phương chưa thực sự sát sao, quan tâm, tạo điều kiện phát triển nghề luật sư. Công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm tại nhiều tỉnh, thành phố chưa được chú trọng, thực hiện thường xuyên, còn hình thức; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền còn chưa quyết liệt, dứt điểm.
(v) Vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư có điểm còn chưa tương xứng với yêu cầu. Một số nhiệm vụ pháp luật giao cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư thực hiện đã được triển khai nhưng chưa thực sự hiệu quả. Mặc dù được giao nhiều nhiệm vụ và được tăng cường vai trò tự quản, nhưng Đoàn Luật sư, Liên đoàn Luật sư Việt Nam chưa có biện pháp hữu hiệu để chấn chỉnh, uốn nắn những luật sư có biểu hiện giảm sút về đạo đức, sai về nhận thức chính trị. Công tác chỉ đạo giải quyết các trường hợp luật sư vi phạm đạo đức nghề nghiệp còn chậm, chưa quyết liệt, dứt điểm so với yêu cầu quản lý luật sư theo chế độ tự quản.
(vi) Việc đăng ký kinh doanh hoạt động đại diện, tư vấn pháp luật, một trong nội dung thuộc phạm vi hành nghề luật sư đang có cách hiểu chưa thống nhất dẫn đến tình trạng cho phép những người không đủ tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp luật sư nhưng lại được cung cấp dịch vụ như luật sư. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dịch vụ pháp lý của luật sư trong nước, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định về an ninh, trật tự, gây khó khăn cho công tác quản lý luật sư và việc thực hiện các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường dịch vụ pháp lý mà Việt Nam tham gia ký kết.
Tại Hội thảo các đại biểu đã được nghe một số báo cáo, tham luận; cùng nhau trao đổi, đánh giá mức độ phù hợp, tính khả thi và hiệu quả triển khai các quy định của Luật Luật sư với thực tế thực hiện, pháp luật có liên quan và thông lệ quốc tế; xác định rõ các nội dung bất cập, hạn chế, mâu thuẫn, chồng chéo, các khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện và nguyên nhân; đề xuất giải pháp cụ thể về việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới Luật Luật sư thay thế Luật Luật sư năm 2006. Từ đó, có một số kiến nghị, đề xuất:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, khả thi của hệ thống pháp luật liên quan đến luật sư và hành nghề luật sư; tạo điều kiện cho luật sư thực hiện quyền hành nghề của mình, thông qua đó, luật sư góp phần bảo vệ công lý, hạn chế các sai sót của cơ quan tiến hành tố tụng, qua đó hoạt động bổ trợ tư pháp cũng có vai trò phối hợp và giám sát “ngược” đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Thứ hai, phát triển nghề luật sư chất lượng và bền vững với đội ngũ luật sư đủ về số lượng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, am hiểu về tập quán pháp luật quốc tế, thông thạo ngoại ngữ, vững về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, chú trọng phát triển đa dạng các lĩnh vực hành nghề chuyên sâu trong các lĩnh vực (bên cạnh một số lĩnh vực truyền thống như tranh tụng, tư vấn pháp luật) để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với chất lượng dịch vụ pháp lý của luật sư, phục vụ đắc lực cho công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
Thứ ba, nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động luật sư thông qua việc sửa đổi, bổ sung quy định chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề luật sư, phạm vi hành nghề của luật sư, các trường hợp được miễn đào tạo nghề, miễn giảm thời gian tập sự hành nghề luật sư; xã hội hóa công tác đào tạo nghề luật sư đảm bảo lộ trình phù hợp, tính khả thi về nguồn lực xã hội và các điều kiện cần thiết; rà soát, điều chỉnh các quy định đối với luật sư nước ngoài, tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tương thích với các quy định đối với luật sư và tổ chức hành nghề luật sư trong nước.
Thứ tư, tăng cường trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm nghề nghiệp của cá nhân luật sư trong hành nghề, đặc biệt là việc tuân thủ pháp luật, giữ gìn đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật hành nghề, góp phần nâng cao vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội.
Thứ năm, nâng cao trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư nhất là trong việc giám sát luật sư, người tập sự hành nghề luật sư, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý kỷ luật đối với luật sư; tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư thực hiện tự quản theo quy định của pháp luật, dưới sự quản lý của nhà nước.
Thứ sáu, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư thông qua việc sửa đổi, bổ sung một số quy định làm rõ hơn nội hàm và mối quan hệ giữa quản lý nhà nước với tự quản; bảo đảm sự thống nhất, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với hoạt động luật sư; quy định rõ hơn về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương; xác định lại mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư; nâng kỳ kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư thành kỳ thi quốc gia để cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư; tăng cường kiểm tra, thanh tra đối với tổ chức, hoạt động của luật sư bảo đảm hoạt động của luật sư được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật./.
Hội thảo được tổ chức với mục đích nghiên cứu, rà soát, trao đổi nhằm đánh giá mức độ phù hợp, tính khả thi và hiệu quả triển khai các quy định của Luật Luật sư với thực tế thực hiện, pháp luật có liên quan và thông lệ quốc tế; xác định rõ các nội dung bất cập, hạn chế, mâu thuẫn, chồng chéo, các khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện và nguyên nhân; đề xuất giải pháp cụ thể về việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới Luật Luật sư thay thế Luật Luật sư năm 2006.
Luật Luật sư năm 2006 được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 22/06/2006 tại kỳ họp thứ 9 là mốc son pháp lý quan trọng hoàn thiện thể chế về luật sư và nghề luật sư ở nước ta. Ngay sau khi Luật Luật sư được ban hành, các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật cũng được ban hành kịp thời, đúng thời hạn, bảo đảm đúng định hướng, lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, hợp hiến, hợp pháp, khả thi, đưa các quy định của pháp luật về luật sư vào cuộc sống hiệu quả, đáp ứng yêu cầu thực tế. Trong quá trình triển khai thi hành Luật Luật sư, Bộ Tư pháp thường xuyên rà soát, kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc tham mưu sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật về luật sư đúng thẩm quyền, phù hợp, thống nhất, đồng bộ với văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Tư pháp, Bộ, cơ quan ngang Bộ và các cơ quan cấp trên đã ban hành trước đó, cơ bản phù hợp với nhu cầu của tổ chức và hoạt động luật sư, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, tiếp cận với thông lệ hành nghề luật sư quốc tế, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn vào thời điểm ban hành văn bản.
![]() |
![]() |
Về cơ bản, thể chế pháp luật về tổ chức và hoạt động của luật sư thời gian qua đã từng bước được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý cho luật sư và tổ chức hành nghề luật sư phát triển cả về số lượng và chất lượng, trong đó có đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập quốc tế, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện Luật Luật sư đã thể hiện một số bất cập, hạn chế, cụ thể như sau:
(i) Còn một số chủ trương, chính sách phát triển nghề luật sư chưa được thể chế hóa hay triển khai thực hiện tại các bộ, ngành, địa phương; một số quy định chưa được hướng dẫn cụ thể hoặc không còn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, thực tiễn phát triển nghề luật sư ở Việt Nam, đặc biệt về tiêu chuẩn, điều kiện trở thành luật sư, vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư. Trong hoạt động hành nghề, luật sư vẫn còn gặp một số khó khăn khi tham gia tố tụng.
(ii) Phẩm chất đạo đức, ý thức tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp chưa thực sự trở thành kim chỉ nam cho mọi hành vi ứng xử của luật sư. Còn tình trạng một số luật sư có hành vi tiêu cực trong hành nghề cũng như các hoạt động chính trị, xã hội khác hoặc lợi dụng quyền hành nghề luật sư thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, tác động, lôi kéo người dân thực hiện khiếu nại, khiếu kiện, tụ tập đông người trái pháp luật, gây mất trật tự, an toàn xã hội.
(iii) Đa số các tổ chức hành nghề luật sư có quy mô nhỏ, quản trị, điều hành còn yếu kém, tính chuyên nghiệp chưa cao, chưa thực sự tạo được niềm tin đối với khách hàng, cơ quan, tổ chức.
(iv) Công tác quản lý nhà nước đối với tổ chức, hoạt động hành nghề của luật sư còn một số hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang diễn ra. Chất lượng đầu vào của luật sư chưa có sự kiểm soát chặt chẽ. Cơ quan quản lý nhà nước một số địa phương chưa thực sự sát sao, quan tâm, tạo điều kiện phát triển nghề luật sư. Công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm tại nhiều tỉnh, thành phố chưa được chú trọng, thực hiện thường xuyên, còn hình thức; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền còn chưa quyết liệt, dứt điểm.
(v) Vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư có điểm còn chưa tương xứng với yêu cầu. Một số nhiệm vụ pháp luật giao cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư thực hiện đã được triển khai nhưng chưa thực sự hiệu quả. Mặc dù được giao nhiều nhiệm vụ và được tăng cường vai trò tự quản, nhưng Đoàn Luật sư, Liên đoàn Luật sư Việt Nam chưa có biện pháp hữu hiệu để chấn chỉnh, uốn nắn những luật sư có biểu hiện giảm sút về đạo đức, sai về nhận thức chính trị. Công tác chỉ đạo giải quyết các trường hợp luật sư vi phạm đạo đức nghề nghiệp còn chậm, chưa quyết liệt, dứt điểm so với yêu cầu quản lý luật sư theo chế độ tự quản.
(vi) Việc đăng ký kinh doanh hoạt động đại diện, tư vấn pháp luật, một trong nội dung thuộc phạm vi hành nghề luật sư đang có cách hiểu chưa thống nhất dẫn đến tình trạng cho phép những người không đủ tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp luật sư nhưng lại được cung cấp dịch vụ như luật sư. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dịch vụ pháp lý của luật sư trong nước, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định về an ninh, trật tự, gây khó khăn cho công tác quản lý luật sư và việc thực hiện các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường dịch vụ pháp lý mà Việt Nam tham gia ký kết.
![]() |
Tại Hội thảo các đại biểu đã được nghe một số báo cáo, tham luận; cùng nhau trao đổi, đánh giá mức độ phù hợp, tính khả thi và hiệu quả triển khai các quy định của Luật Luật sư với thực tế thực hiện, pháp luật có liên quan và thông lệ quốc tế; xác định rõ các nội dung bất cập, hạn chế, mâu thuẫn, chồng chéo, các khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện và nguyên nhân; đề xuất giải pháp cụ thể về việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới Luật Luật sư thay thế Luật Luật sư năm 2006. Từ đó, có một số kiến nghị, đề xuất:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, khả thi của hệ thống pháp luật liên quan đến luật sư và hành nghề luật sư; tạo điều kiện cho luật sư thực hiện quyền hành nghề của mình, thông qua đó, luật sư góp phần bảo vệ công lý, hạn chế các sai sót của cơ quan tiến hành tố tụng, qua đó hoạt động bổ trợ tư pháp cũng có vai trò phối hợp và giám sát “ngược” đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Thứ hai, phát triển nghề luật sư chất lượng và bền vững với đội ngũ luật sư đủ về số lượng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, am hiểu về tập quán pháp luật quốc tế, thông thạo ngoại ngữ, vững về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, chú trọng phát triển đa dạng các lĩnh vực hành nghề chuyên sâu trong các lĩnh vực (bên cạnh một số lĩnh vực truyền thống như tranh tụng, tư vấn pháp luật) để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với chất lượng dịch vụ pháp lý của luật sư, phục vụ đắc lực cho công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
Thứ ba, nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động luật sư thông qua việc sửa đổi, bổ sung quy định chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề luật sư, phạm vi hành nghề của luật sư, các trường hợp được miễn đào tạo nghề, miễn giảm thời gian tập sự hành nghề luật sư; xã hội hóa công tác đào tạo nghề luật sư đảm bảo lộ trình phù hợp, tính khả thi về nguồn lực xã hội và các điều kiện cần thiết; rà soát, điều chỉnh các quy định đối với luật sư nước ngoài, tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tương thích với các quy định đối với luật sư và tổ chức hành nghề luật sư trong nước.
Thứ tư, tăng cường trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm nghề nghiệp của cá nhân luật sư trong hành nghề, đặc biệt là việc tuân thủ pháp luật, giữ gìn đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật hành nghề, góp phần nâng cao vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội.
Thứ năm, nâng cao trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư nhất là trong việc giám sát luật sư, người tập sự hành nghề luật sư, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý kỷ luật đối với luật sư; tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư thực hiện tự quản theo quy định của pháp luật, dưới sự quản lý của nhà nước.
Thứ sáu, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư thông qua việc sửa đổi, bổ sung một số quy định làm rõ hơn nội hàm và mối quan hệ giữa quản lý nhà nước với tự quản; bảo đảm sự thống nhất, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với hoạt động luật sư; quy định rõ hơn về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương; xác định lại mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư; nâng kỳ kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư thành kỳ thi quốc gia để cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư; tăng cường kiểm tra, thanh tra đối với tổ chức, hoạt động của luật sư bảo đảm hoạt động của luật sư được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật./.
Vũ Hải Việt