Nhằm tăng cường hơn nữa hiệu quả công tác thi hành án, đáp ứng hội nhập quốc tế, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới, cần không ngừng đổi mới và hoàn thiện bộ máy tổ chức cơ quan thi hành án. Trong quá đổi mới, việc nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức thi hành án của các nước trên thế giới đóng vai trò quan trọng, nhằm giúp cho Việt Nam tìm kiếm và lựa chọn một mô hình thích hợp. Phạm vi bài viết này nghiên cứu một số mô hình tổ chức thi hành án của một số nước trên thế giới, kinh nghiệm cho Việt Nam và sự cần thiết phải đổi mới mô hình tổ chức thi hành án trong thời gian tới.
1. Các mô hình quản lý và tổ chức thi hành án một số nước trên thế giới
Hiện nay, các nước trên thế giới phổ biến thiết kế tổ chức thi hành án theo 3 mô hình cơ bản sau đây: (i) Mô hình thi hành án do Bộ Tư pháp và Tòa án quản lý, (ii) Mô hình thi hành án do Tòa án quản lý, (iii) Mô hình thi hành án do nhiều cơ quan quản lý phụ thuộc vào tính chất, mức độ của bản án.
1.1. Đối với mô hình thi hành án do Bộ Tư pháp và Tòa án quản lý
Đây là mô hình mà việc tổ chức thi hành các bản án hình sự, liên quan đến hình phạt tù do Bộ Tư pháp quản lý và thực hiện, đối với thi hành các bản án liên quan đến tài sản và nhân thân phi tài sản (thi hành án dân sự) do Tòa án quản lý và các tổ chức Thừa phát lại thực hiện.
Điển hình cho mô hình này là Cộng hòa Pháp [2], qua nghiên cứu và khảo sát về cải cách tư pháp tại Cộng Hòa Pháp cho thấy: Đối với thi hành án hình sự, hệ thống các cơ quan quản lý trại giam bao gồm Cục Quản lý trại giam thuộc Bộ Tư pháp, là cơ quan quản lý cấp Trung ương đặt ở Paris. Đứng đầu Cục Quản lý trại giam là Cục trưởng do Tổng thống bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Cục Quản lý trại giam gồm: Phòng Thanh tra trại giam, Phòng Truyền thông và Quan hệ quốc tế; bốn Ban gồm Ban Tham mưu, Ban Quản lý những người đang chấp hình phạt tù và các hình phạt khác, Ban Quản lý tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý trại giam địa phương, Ban Quản lý nguồn nhân lực và các cơ quan hệ xã hội. Các cơ quan quản lý trại giam cấp địa phương bao gồm: 9 Phòng quản lý cấp vùng; 1 Phòng quản lý trại giam tại các tỉnh và vùng hải ngoại. Các phòng quản lý trại giam cấp vùng gồm: Các cơ sở giam giữ và các cơ quan tái hoà nhập xã hội và thử thách. Các cơ sở giam giữ gồm: Nhà trại giam, các cơ sở thi hành án phạt tù và các cơ sở giam giữ đặc biệt. Cán bộ trại giam bao gồm quản giáo là lực lượng chính, quản giáo không thuộc lực lượng vũ trang nhưng có hưởng cấp bậc giống như công chức trong lực lượng cảnh sát quốc gia, các viên chức khác tham gia công tác thi hành án hình sự còn có: Giám thị, nhân viên hỗ trợ xã hội và kỹ thuật viên, nhân viên hành chính.
Thi hành án về tài sản và nhân thân phi tài sản (thi hành án dân sự) do Toà án theo dõi, quản lý và tổ chức Thừa phát lại thực hiện. Theo Đạo luật năm 1991 về cải cách thủ tục thi hành án, thì tại Toà án sơ thẩm thẩm quyền rộng có các thẩm phán thi hành án, được chánh Toà chỉ định và ủy quyền phụ trách thi hành án. Thẩm phán thi hành án có trách nhiệm kiểm tra, giám sát tính hợp pháp, hợp lệ của quá trình thi hành án, cho phép tiến hành các biện pháp kê biên bảo tồn, quyết định thời hạn tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại phát sinh trong quá trình thi hành án. Tổ chức Thừa phát lại chịu trách nhiệm trực tiếp thi hành án dân sự.
Thừa phát lại được thiết lập ở 3 cấp: Hội đồng Thừa phát lại cấp tỉnh, cấp vùng và cấp quốc gia. Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền bổ nhiệm Thừa phát lại. Các văn phòng, công ty Thừa phát lại được tổ chức và hoạt động theo mô hình của các công ty thương mại. Tư cách Thừa phát lại rất linh hoạt, họ vừa là viên chức tư pháp, viên chức công quyền, bổ trợ viên tư pháp vừa là một nghề tự do, có tư cách hoạt động độc lập. Kinh phí hoạt động của Thừa phát lại là thù lao do các bên yêu cầu thi hành án trả, ngoài ra, Thừa phát lại còn nộp thuế cho Nhà nước. Thừa phát lại là lực lượng duy nhất ở Pháp có quyền yêu cầu hỗ trợ của các lực lượng vũ trang công quyền trong trường hợp cần thiết. Thừa phát lại hành nghề theo quy chế tự do, độc lập với chính quyền và chỉ chịu trách nhiệm trước Toà án và viện công tố.
Bun-ga-ri và Cộng hòa Liên bang Nga cũng là những nước theo mô hình này. Tại Bun-ga-ri, việc quy định cơ quan quản lý và thực hiện thi hành án hình sự có nhiều sự thay đổi, trước năm 1887, thi hành án hình sự chưa được quy định rõ ràng nhưng được cơ quan cảnh sát thực hiện, năm 1891, Bộ Tư pháp được giao quản lý, sau đó năm 1968, Luật Thi hành án hình sự được ban hành, việc quản lý thi hành án hình sự được giao cho Bộ Nội vụ (tức Bộ Công an). Đến năm 1990, việc quản lý thi hành hình phạt được chuyển lại cho Bộ Tư pháp. Lý do Bun-ga-ri chuyển giao việc quản lý thi hành hình phạt từ Bộ Nội vụ sang Bộ Tư pháp xuất phát từ yêu cầu đảm bảo tính độc lập, khách quan trong thi hành hình phạt, bảo vệ quyền của các phạm nhân, bị can, bị cáo. Bởi một cơ quan vừa làm công tác điều tra lại vừa làm công tác thi hành án, quản lý các cơ sở tạm giữ sẽ không khách quan. Việc chuyển sang cho Bộ Tư pháp quản lý sẽ phù hợp với xu hướng chung của các nước trong Cộng đồng Châu Âu mà Bun-ga-ri là thành viên. Nhà tù, trại cải tạo và cơ sở tạm giam do Tổng cục Thi hành án hình phạt quản lý. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định cơ cấu, tổ chức, chức năng nhiệm vụ của Tổng cục Thi hành án hình phạt.
Về thi hành án dân sự, trước đây, Bun-ga-ri áp dụng mô hình thi hành án nhà nước, do Tòa án quản lý, từ năm 2005, Bun-ga-ri bắt đầu chuyển sang mô hình Thừa phát lại. Khi thực hiện chuyển đổi, Nhà nước tạo điều kiện cho các chấp hành viên (cơ quan thi hành án nhà nước) chuyển sang nghề Thừa phát lại. Hiện nay, thi hành án dân sự tại Bun-ga-ri được thực hiện bởi cơ quan thi hành án nhà nước và Thừa phát lại tư nhân. Hầu hết, những Thừa phát lại đang hành nghề là những người đã là chấp hành viên của thi hành án nhà nước. Thừa phát lại có chức năng, quyền hạn như các cơ quan thi hành án nhà nước nhưng là đơn vị hạch toán, tạo công ăn việc làm cho xã hội và đóng thuế cho Nhà nước. Hiện nay, thi hành án nhà nước chủ yếu tổ chức thi hành các vụ việc cho nhà nước, chính điều này làm cho quá trình chuyển đổi diễn ra một cách tự nhiên.
Đối với Cộng hoà Liên bang Nga, thi hành án hình sự do Bộ Tư pháp quản lý [5,6]. Đây cũng là nước có sự chuyển đổi cơ quan thi hành án hình sự thành công. Năm 1998, Cộng hòa Liên bang Nga chuyển giao tất cả các cơ sở giam giữ và cơ quan quản lý, điều hành việc xử phạt những đối tượng bị kết án từ Bộ Nội vụ sang Bộ Tư pháp, lý do của việc chuyển đổi này là nhằm đáp ứng điều kiện để được kết nạp vào Hội đồng Châu Âu. Từ khi chuyển giao, trách nhiệm quản lý hệ thống nhà tù được quan tâm hơn, được sự ủng hộ mạnh mẽ về mặt chính trị. Việc chuyển giao được coi là cam kết ở mức độ cao hơn đối với các quyền con người. Tại Bộ Tư pháp đã thiết lập một cơ quan có nhiệm vụ đảm bảo việc thi hành luật và tôn trọng quyền con người.
Thi hành án dân sự tại Cộng hòa Liên bang Nga do Tòa án thực hiện, theo quy định của Bộ luật tố tụng của Liên bang thì chấp hành viên là người thi hành các quyết định, bản án của Toà án.
Ngoài ra, Hung-ga-ri cũng là một nước đã chuyển cơ quan thi hành án hình sự cho Bộ Tư pháp quản lý, cơ quan trực tiếp quản lý thi hành án hình sự là Cục trưởng Cục Quốc gia về quản lý trại giam. Bộ Tư pháp đảm bảo cho hoạt động của Cục Quốc gia về quản lý trại giam. Việc theo dõi thi hành án hình sự thuộc nhiệm vụ của thẩm phán, họ là cầu nối giữa Bộ Tư pháp và Cục Quốc gia về quản lý trại giam, thẩm phán theo dõi thi hành án hình sự không chỉ chịu trách nhiệm giám sát việc thi hành án phạt tù mà còn giám sát việc thi hành các biện pháp thử thách hoặc hình phạt lao động công ích. Người làm việc tại Cục Quốc gia về quản lý trại giam là công chức nhưng được hưởng quy chế riêng.
1.2. Đối với mô hình thi hành án do Tòa án quản lý
Đây là mô hình mà việc quản lý và tổ chức thi hành án hình sự do công tố viên chịu trách nhiệm còn thi hành án dân sự do Tòa án quản lý và thi hành.
Mô hình này được In-đô-nê-si-a áp dụng [8], thi hành án hình sự được thực hiện bởi công tố viên nhưng Tòa án là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi. Trước khi bản án được thi hành, công tố viên được thư ký Toà án ký xác nhận bản án đã có hiệu lực pháp luật, công tố viên ra lệnh thi hành án gửi cho nhà tù, việc giám sát, theo dõi thi hành án hình sự do thẩm phán thực hiện.
Thi hành án dân sự được thực hiện bởi thẩm phán Tòa án, đối với bản án về bồi thường thiệt hại (trong vụ án hình sự) được tiến hành theo thủ tục thi hành dân sự, do Thừa phát lại thi hành. Người phải thi hành án dân sự không có hoặc không đủ tài sản để thi hành, thì theo yêu cầu của bên thắng kiện, chánh án Toà án cấp quận, huyện có thể trao lệnh cho Thừa phát lại bắt người phải thi hành án để tạm giam. Người bị bắt có thể bị giam giữ trong thời hạn 3 năm.
Ngoài ra, Hàn Quốc [8] cũng là quốc gia có tổ chức thi hành án gần giống như In-đô-nê-si-a, đó là vệc thi hành án hình sự do công tố viên thực hiện, tuy nhiên việc quản lý thuộc trách nhiệm của Bộ Tư pháp chứ không phải là Tòa án như In-đô-nê-si-a. Thi hành án dân sự do Tòa án quận chịu trách nhiệm thi hành, nhân viên thi hành án độc lập, không nằm trong Ngành Tư pháp, họ tuy không phải là công chức đúng nghĩa nhưng được đặt dưới sự giám sát của chánh án Tòa án quận có thẩm quyền. Chánh án Tòa án cấp quận bổ nhiệm nhân viên thi hành án từ những người đã phục vụ trong Ngành Tòa án, với tư cách là công chức trong một thời gian nhất định tại các Tòa án hoặc các văn phòng công tố.
1.3. Đối với mô hình thi hành án do nhiều cơ quan thực hiện phụ thuộc vào tính chất, mức độ của bản án
Đây là mô hình thi hành án do nhiều cơ quan như Tòa án, Bộ Tư pháp, Bộ Công an quản lý và thi hành, việc phân định cơ quan nào thi hành bản án nào phụ thuộc hoàn toàn vào tính chất vụ án và bản án do Tòa án đã tuyên, hoặc phụ thuộc vào thời gian người phải thi hành án đã thi hành được thời gian bao lâu.
Mô hình này được Cộng hòa nhân dân Trung Hoa áp dụng [8,9]. Đối với các bản án hình sự, được phân chia thẩm quyền thi hành cho các cơ quan như Toà án, Bộ Tư pháp và Bộ Công an. Trước năm 1983, nhà tù đặt dưới sự quản lý của Bộ Công an, tuy nhiên từ năm 1983 đến nay, nhà tù được chuyển sang Bộ Tư pháp quản lý. Tùy thuộc vào loại hình phạt mà cơ quan quản lý thi hành án sẽ là Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an hay Bộ Tư pháp, cụ thể:
- Án tử hình nhưng cho thi hành ngay, án phạt tước các quyền về chính trị, tịch thu tài sản do Tòa án thi hành (cơ quan quản lý là Tòa án nhân dân tối cao).
- Án cải tạo không giam giữ, án treo, án tạm thời thi hành bên ngoài nhà tù, phóng thích trước thời hạn do cơ quan công an thi hành (cơ quan quản lý là Bộ Công an).
- Tạm giam hình sự, tù có thời hạn với thời gian còn lại dưới 1 năm, áp dụng cùng cải tạo không giam giữ, tạm giam trước khi bị kết án do nhà tạm giam thi hành (cơ quan quản lý là Bộ Công an).
- Tù có thời hạn mà thời gian còn lại trên 1 năm, tù chung thân, tử hình nhưng cho tạm dừng thi hành án, tước quyền chính trị nhưng áp dụng cùng với hình phạt tù do Nhà tù thực hiện (cơ quan quản lý là Bộ Tư pháp). Ở Trung Quốc, hình phạt tử hình chỉ được áp dụng đối với các tội phạm thực hiện hành vi vô nhân tính. Tất cả các bản án tử hình đều phải trình lên Tòa án nhân dân tối cao phê chuẩn. Nếu việc thi hành án tử hình là không cần thiết thì có thể được gia hạn thực hiện trong 2 năm, điều này phải được tuyên ngay trong bản án tuyên tử hình (những bản án náy có thể do Tòa án nhân dân tối cao tuyên hoặc phê chuẩn), trường hợp thi hành trong thời gian gia hạn này sẽ do các nhà tù thi hành. Nếu người bị tuyên án tử hình có gia hạn thi hành không thực hiện hành vi phạm tội cố ý trong 2 năm đó thì hình phạt đối với người này sẽ được chuyển đổi thành tù chung thân sau khi hết 2 năm; nếu người đó lập thành tích được khen thì hình phạt được chuyển đổi thành tù có thời hạn với thời hạn cụ thể từ tối thiểu 15 năm tới tối đa 20 năm tù, kể từ khi kết thúc 2 năm gia hạn án tử hình. Tuy nhiên, trong thời hạn 2 năm gia hạn này, người bị kết án có hành vi cố ý phạm tội, thì hành phạt tử hình sẽ được thi hành ngay sau khi có phê chuẩn của Tòa án nhân dân tối cao.
Đối với thi hành án dân sự do Tòa án chịu trách nhiệm quản lý và thi hành, không có sự tách bạch giữa cơ quan xét xử và cơ quan thi hành án.
Qua nghiên cứu các mô hình tổ chức thi hành án của các nước trên đây, có thể thấy, mỗi nước có cách thiết lập tổ chức thi hành án riêng, không giống nhau, có nước, hệ thống cơ quan thi hành án nằm trong Bộ Tư pháp, do Bộ Tư pháp quản lý, có nước do Tòa án quản lý, có nước do Bộ Công an quản lý, cũng có nước, việc thi hành án hình sự được giao cho nhiều cơ quan thực hiện, trong đó có cả cơ quan thuộc lực lượng vũ trang tùy thuộc vào hình phạt mà Tòa án đã tuyên. Mô hình thi hành án dân sự các nước trên thế giới cũng rất đa dạng, tùy theo đặc điểm truyền thống, môi trường pháp lý, điều kiện kinh tế - xã hội ở từng nước, mà tổ chức thi hành án dân sự có thể được thể hiện dưới hình thức là một tổ chức công, bán công hoặc do tư nhân đảm nhiệm. Cán bộ thi hành án là chấp hành viên, Thừa phát lại đều do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm và giám sát hoạt động. Tuy nhiên, nhìn chung, xu hướng trên thế giới, việc thi hành hình phạt đã và đang tách ra khỏi lực lượng vũ trang nhằm đảm bảo quyền con người và đảm bảo khách quan trong thi hành án, thi hành án dân sự được xã hội hóa mạnh, nhiều nước việc thi hành án dân sự hoàn toàn do tổ chức thừa phát lại đảm nhiệm.
2. Những kinh nghiệm cho Việt Nam và sự cần thiết đổi mới mô hình tổ chức thi hành án trong giai đoạn tới
Xuất phát từ yêu cầu đảm bảo tính độc lập, khách quan trong thi hành hình phạt, bảo vệ quyền của các phạm nhân, bị can, bị cáo thì việc quản lý thi hành án hình sự một số nước đã tách ra khỏi lực lượng vũ trang và chuyển cho một cơ quan dân sự thực hiện, đây là kinh nghiệm mà Việt Nam có thể tham khảo, ngoài ra, nó cũng phù hợp với định hướng của Đảng thể hiện trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đó là việc “chuẩn bị các điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để thực hiện việc chuyển giao tổ chức và công tác thi hành án cho Bộ Tư pháp”. Trong xu hướng hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền, và nhất là điều kiện kinh tế, xã hội của Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu, đổi mới mô hình tổ chức thi hành án theo hướng tập trung, thống nhất là cần thiết bởi những lý do sau đây:
Thứ nhất, việc thống nhất quản lý công tác thi hành án sẽ bảo đảm cho hoạt động thi hành án không bị phân tán, tạo điều kiện trong việc xác định các giải pháp tổng thể để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án, huy động và phát huy các nguồn lực sẵn có đối với hoạt động thi hành án, phối hợp các hoạt động nhằm đảm bảo hiệu lực của các bản án trên thực tế. Mặt khác, sẽ thuận lợi trong việc đầu tư về con người, cơ sở vật chất, trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại, đảm bảo sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, điều hành nhanh nhạy, kịp thời phát hiện và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tránh sự can thiệp của các cơ quan khác vào hoạt động thi hành án, làm cho hoạt động thi hành án hiệu lực, hiệu quả.
Thứ hai, việc dân sự hóa hoạt động thi hành án hình sự là phù hợp với xu hướng chung trong cải cách giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân của quốc tế và khu vực, bảo đảm cho việc thực hiện quyền con người, nhiều nước trên thế giới đã thực hiện chuyển đổi theo nguyên tắc bảo đảm sự độc lập, tách bạch về tổ chức, hoạt động giữa các cơ quan tiến hành tố tụng (điều tra, truy tố) với các cơ quan giam giữ (nhất là tạm giam, tạm giữ bị can, bị cáo trong các giai đoạn trước xét xử), tạo khả năng lớn cho việc dân chủ hóa, xã hội hóa và tăng cường sự giám sát xã hội đối với quá trình giam giữ, giáo dục, cải tạo và tái hòa nhập cộng đồng cho phạm nhân, bảo đảm tốt hơn các quyền con người theo đúng mục tiêu của Nghị quyết số 49-NQ/TW đề ra.
Thứ ba, khi chuyển thi hành án hình sự ra khỏi lực lượng vũ trang, quyền con người sẽ được đảm bảo theo nguyên tắc chung của công pháp quốc tế. Trên thế giới, hệ thống nhà tù dân sự luôn được đặt ở vị trí trung tâm trong khuôn khổ quốc tế về quyền con người, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 có quy định: “Hệ thống cơ sở cải tạo bao hàm cả việc đối xử với tù nhân với mục đích căn bản là cải tạo và phục hồi địa vị xã hội cho họ”. Quy chế nhà tù Châu Âu năm 2006 quy định: “Nhà tù là trách nhiệm của các cơ quan công quyền độc lập với các cơ quan quân đội, cảnh sát hay điều tra hình sự”. Mục tiêu của Công ước và Quy chế là coi tội phạm hình sự phải được xử lý theo quy chuẩn nhằm bảo vệ mọi quyền pháp lý của con người. Nhà tù phải do cơ quan dân sự quản lý, điều hành; phải bảo lưu tất cả các quyền cho những đối tượng bị giam giữ, chứ không nhất thiết tước đoạt các quyền đó của họ chỉ vì họ bị phạt tù và ngay trong thời gian ở tù. Trong Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân năm 1955 có quy định: trừ khi có lý do chính đáng để cách ly một người hay để duy trì kỷ luật, hệ thống nhà tù phải không được làm trầm trọng thêm nỗi đau khổ vốn có trong trường hợp như vậy. Mục đích và lý do chính của việc kết án tù hay của một biện pháp tước bỏ tự do tương tự là để bảo vệ xã hội chống lại tội phạm.
Thứ tư, góp phần hạn chế đến mức thấp nhất việc dùng bạo lực đối với người phạm tội đang bị giam giữ. Quy chế nhà tù Châu Âu năm 2006 đề cập đến vấn đề tách biệt cơ quan thi hành án phạt tù và cơ quan giam giữ nghi phạm, bị can, bị cáo trong quá trình điều tra. Phần chú thích của Quy chế này ghi: “Điều quan trọng là có sự tách bạch rõ ràng về mặt tổ chức giữa cảnh sát và quản lý nhà tù. Ở hầu hết các nước Châu Âu, trách nhiệm quản lý cảnh sát thuộc về Bộ Nội vụ, còn trách nhiệm quản lý nhà tù thuộc về Bộ Tư pháp. Lập luận về cơ quan điều tra và cơ quan thi hành án phạt tù, cơ quan giam giữ nghi phạm, bị can, bị cáo phải tách biệt với nhau xuất phát từ sự lo ngại về nguy cơ cán bộ điều tra sử dụng việc giam giữ nghi phạm làm công cụ điều tra, hoặc để ép buộc người đó phải nhận tội, ngoài ra còn để tránh việc dùng bạo lực đối với người đang chấp hành hình phạt trong trại giam. Những yêu cầu này phù hợp với quy tắc quốc tế, tội phạm hình sự phải được xử lý theo quy trình chuẩn, nhằm bảo vệ mọi quyền pháp lý của con người, trong hệ thống đó, nhà tù phải do cơ quan dân sự quản lý điều hành có sự giám sát, kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền như Quốc hội và các tổ chức xã hội dân sự khác.
Thứ năm, tạo thuận lợi cho sự phối hợp chặt chẽ giữa thi hành án dân sự và thi hành án hình sự vốn đang bị chia cắt, đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng đối với toàn bộ tổ chức và hoạt động thi hành án.
Thứ sáu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội của Ngành Công an ngày càng nặng nề, do quá trình phát triển cả xã hội nên nhiều loại tội phạm phức tạp xuất hiện, ngoài nhiệm vụ phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, bảo đảm an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, thì việc quản lý và tổ chức thi hành án phạt tù đã làm cho nhiệm vụ của Ngành Công an quá tải. Việc chuyển hoạt động thi hành án hình sự sang Bộ Tư pháp (cơ quan thuộc Chính phủ) sẽ giúp cho Ngành Công an có điều kiện tập trung nguồn lực vào các nhiệm vụ trọng tâm, đặc trưng của lực lượng vũ trang như bảo đảm an ninh quốc gia, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Bên cạnh đó, còn là việc để củng cố và phát huy vai trò của các bộ, ngành thuộc Chính phủ trong việc quản lý trại giam, góp phần củng cố tổ chức và hoạt động của cả một hệ thống (trong quá trình tố tụng hình sự, quyền điều tra, quyền truy tố, quyền xét xử, quyền thi hành án sẽ trở thành các chức năng tách biệt, có hợp tác và kiểm soát lẫn nhau).
Thứ bảy, sẽ phù hợp nếu Bộ Tư pháp là cơ quan được giao chịu trách nhiệm quản lý thống nhất thi hành án trong giai đoạn hiện nay, bởi lẽ, Bộ Tư pháp là cơ quan được Chính phủ giao nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật về hình sự và dân sự, thay mặt Chính phủ báo cáo trước Quốc hội về công tác thi hành án và đặc xá nên Bộ Tư pháp có vai trò quan trọng trong việc giúp Chính phủ dự thảo luật hình sự, theo dõi, tổng kết thi hành luật hình sự, đảm bảo tính hợp lý, thống nhất, gắn kết liên tục giữa các khâu, công đoạn của hoạt động quản lý nhà nước về thi hành án, từ xây dựng chính sách pháp luật đến tổ chức thi hành luật, tổng kết thực tiễn để tiếp tục hoàn thiện pháp luật, và trên thực tế hiện nay Bộ Tư pháp đang quản lý toàn bộ hoạt động thi hành án dân sự, nếu được giao quản lý thi hành án hình sự sẽ không có những trở ngại quá lớn.
Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi cho rằng, việc đổi mới mô hình tổ chức thi hành án đáp ứng công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế, đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong tương lai là việc cấp thiết, cần phải được tiến hành sớm, mặt khác, hơn lúc nào hết, vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân chưa lúc nào được đề cao như ngày nay, khi Hiến pháp năm 2013 cũng khẳng định điều này, đồng thời đây cũng chính là đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang dày công xây dựng.
Ở Việt Nam hiện nay, thi hành án hình sự do Bộ Công an quản lý, thi hành án dân sự do Bộ Tư pháp quản lý, Bộ Quốc phòng quản lý thi hành án trong quân đội. Để bắt kịp xu hướng thế giới, xây dựng một nền tư pháp minh bạch, đảm bảo quyền con người, quyền công dân, đảm bảo khách quan trong tổ chức thi hành án, thì việc thiết lập một cơ quan thi hành án tách bạch khỏi lực lượng vũ trang là cần thiết. Việt Nam có thể tham khảo mô hình một số nước trên thế giới, đó là mô hình tổ chức thi hành án hình sự được quản lý bởi Bộ Tư pháp, ngoài ra cũng cần tính đến việc xã hội hóa một số hoạt động trong thi hành hình phạt tù, nhằm làm giảm chi phí của Nhà nước và tránh quá tải trong các trại giam, trại tạm giam.
Văn phòng Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương
1. James F. Harrigan - Chuyên gia tư vấn pháp lý cho Cơ quan Thi hành án San Francisco, California, Hoa Kỳ (3/2005), Báo cáo và các đề xuất của STAR Việt Nam về dự thảo Bộ luật thi hành án của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tài liệu của STAR Việt Nam, 17 Ngô Quyền, Hà Nội.
2. Jean - Francois Blarel, Đại sứ Cộng hòa Pháp tại Việt Nam (2006), Diễn văn khai mạc Hội thảo quốc tế “Các mô hình tổ chức thi hành án trên thế giới”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế các mô hình tổ chức thi hành án trên thế giới của Nhà pháp luật Việt - Pháp, Hà Nội, ngày 17 và 18/4/2006.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020,
Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp từ nay đến năm 2020, Hà Nội.
5. V.I Celiverstova - Về chuyển giao hệ thống thi hành án từ Bộ Nội vụ sang cho Bộ Tư pháp Liên bang Nga quản lý - Tài liệu hội thảo Quản lý thi hành án, các mô hình và kinh nghiệm quốc tế - Hà Nội, 5/2009.
6. Rob Allen – Các mô hình quản lý công tác thi hành án trên thế giới hiện nay và xu hướng phát triển trong thời gian tới - Tài liệu hội thảo Quản lý thi hành án, các mô hình và kinh nghiệm quốc tế - Hà Nội, 5/2009.
7. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2003), Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới, Báo cáo phúc trình đề tài cấp nhà nước độc lập, Hà Nội.
8. Nhà xuất bản Tư pháp - Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp của năm quốc gia Trung Quốc, In-đô-nê-si-a, Nhật Bản, Hàn Quốc và Nga, Hà Nội, 2011.
9. T.S Zhou Yong - Hệ thống quản lý thi hành án dân sự và hình sự ở Trung Quốc - Tham luận tại Hội thảo Quản lý thi hành án, các mô hình và kinh nghiệm quốc tế - Hà Nội, 5/2009.