
Tóm tắt: Bài viết nêu lên một số bất cập của quy định pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm và đưa ra những giải pháp khắc phục.
Abstract: The article highlights some inadequacies of legal provisions on secured transaction registration and offers overcoming solutions.
1. Quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm
Thứ nhất, về các loại tài sản được sử dụng để đăng ký giao dịch bảo đảm
Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định cụ thể tài sản bảo đảm có thể là vật (Điều 320); tiền, giấy tờ có giá (Điều 321); quyền tài sản (Điều 322). Điều 295 Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ quy định chung là “tài sản bảo đảm”, tuy nhiên, theo định nghĩa “tài sản” tại Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì tài sản không có gì thay đổi, tài sản vẫn bao gồm tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản và phải đáp ứng các điều kiện sau: (i) Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, ngoại trừ hai biện pháp bảo đảm là bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài sản. (ii) Tài sản có thể được mô tả chung nhưng phải xác định được. Do tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai, nên luật quy định tài sản có thể được mô tả chung nhưng phải xác định được. Mô tả chung tức là không thể cụ thể hóa loại tài sản đó, vì thực tế nó chưa hình thành hoặc chưa hình thành một cách đồng bộ nhưng phải xác định được để có cơ sở xử lý chính xác loại tài sản đó khi phát sinh việc xử lý tài sản bảo đảm. (iii) Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm. Thông thường, giá trị tài sản bảo đảm phải lớn hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm để khi xử lý tài sản bảo đảm thì số tiền thu được từ việc bán tài sản bảo đảm còn để thanh toán các nghĩa vụ tài chính khác như chi phí bảo quản, chi phí xử lý tài sản. Tuy nhiên, các bên có thể thỏa thuận giá trị tài sản bảo đảm bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ bảo đảm. (iv) Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai. Bộ luật Dân sự năm 2015 cho phép tài sản hình thành trong tương lai được phép dùng làm tài sản bảo đảm. Trước đây, Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định vật dùng để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có thể là vật hình thành trong tương lai (Điều 320), nhưng không quy định tài sản nào là tài sản hình thành trong tương lai. Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định cụ thể tài sản hình thành trong tương lai, bao gồm tài sản chưa hình thành, tài sản đã hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản sau thời điểm xác lập giao dịch (khoản 2 Điều 108).
Đối với một tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, cũng như Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cụ thể tại Điều 296 về một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ khi có các điều kiện: (i) Tài sản bảo đảm có giá trị tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác; (ii) Bên bảo đảm phải thông báo cho bên nhận bảo đảm sau khi biết về việc tài sản bảo đảm đang được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác; (ii) Mỗi lần bảo đảm phải được lập thành văn bản.
Thứ hai, về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định 09 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (Điều 292), ngoài 07 biện pháp đã được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015 bổ sung 02 biện pháp là bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài sản. Trong đó:
- Về bảo lưu quyền sở hữu:
Biện pháp bảo lưu quyền sở hữu được quy định từ Điều 331 đến Điều 334 Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, bảo lưu quyền sở hữu được quy định: Trong hợp đồng mua bán, bên bán có thể bảo lưu quyền sở hữu đối với tài sản (đối tượng của hợp đồng) cho đến khi bên mua thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán cho bên bán. Việc bảo lưu quyền sở hữu phải được lập thành văn bản riêng hoặc được ghi trong hợp đồng mua bán và phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký. Trong trường hợp bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán cho bên bán theo thỏa thuận thì bên bán có quyền đòi lại tài sản và bên bán hoàn trả cho bên mua số tiền bên mua đã thanh toán sau khi trừ đi giá trị hao mòn tài sản do sử dụng. Trường hợp bên mua làm mất, hư hỏng tài sản thì bên bán có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Như vậy, bảo lưu quyền sở hữu là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ gắn với hợp đồng mua bán tài sản, mà cụ thể là hợp đồng mua bán tài sản theo hình thức mua trả chậm, trả dần (hay còn gọi là trả góp) được quy định tại điều 453 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Các bên có thể thỏa thuận về việc bên mua trả chậm hoặc trả dần tiền mua trong một thời hạn sau khi nhận tài sản mua. Bên bán được bảo lưu quyền sở hữu đối với tài sản bán cho đến khi bên mua trả đủ tiền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
- Về cầm giữ tài sản:
Biện pháp cầm giữ tài sản được quy định từ Điều 346 đến Điều 350 Bộ luật Dân sự năm 2015. Điều 346 quy định: “Cầm giữ tài sản là việc bên có quyền (sau đây gọi là bên cầm giữ) đang nắm giữ hợp pháp tài sản là đối tượng của hợp đồng song vụ được chiếm giữ tài sản trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.
Khác với biện pháp “cầm cố”, tài sản cầm cố phải thuộc sở hữu của bên cầm cố, đối với cầm giữ tài sản thì tài sản cầm giữ chính là đối tượng của hợp đồng song vụ để bảo đảm cho chính việc thực hiện nghĩa vụ liên quan đến tài sản bị cầm giữ đó. Ví dụ, theo hợp đồng sửa chữa xe ôtô giữa anh A (chủ gara xe) và anh B, thì anh A sẽ thay thế thiết bị điều hòa trong xe của anh B với giá 20 triệu đồng. Tuy nhiên, đến ngày giao xe theo thỏa thuận, anh B không thanh toán tiền cho anh A. Anh A có quyền cầm giữ chiếc xe ôtô để đảm bảo anh B phải trả số tiền thay thế thiết bị cho mình. Việc cầm giữ tài sản phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm bên cầm giữ chiếm giữ tài sản.
Tương tự như bảo lưu quyền sở hữu, cầm giữ tài sản cũng không phải là quy định mới trong Bộ luật Dân sự năm 2015, tại Điều 416 Bộ luật Dân sự năm 2005 về cầm giữ tài sản trong hợp đồng song vụ đã có quy định về cầm giữ tài sản, chỉ khác là chưa được quy định là một biện pháp đảm bảo mà thôi.
- Về thế chấp tài sản:
Đối với tài sản thế chấp (Điều 318), khác với Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ khi có thỏa thuận thì tài sản gắn liền với đất mới được xem là tài sản thế chấp (Điều 716 Bộ luật Dân sự năm 2005), Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp thì tài sản gắn liền với đất cũng thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”; “Trường hợp tài sản thế chấp được bảo hiểm thì bên nhận thế chấp phải thông báo cho tổ chức bảo hiểm biết về việc tài sản bảo hiểm đang được dùng để thế chấp. Tổ chức bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm trực tiếp cho bên nhận thế chấp khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất. Quyền sử dụng đất, nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất là những loại tài sản được lựa chọn phổ biến để thế chấp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Để tạo điều kiện thuận lợi, linh hoạt nhất cho các chủ thể tham gia vào quan hệ thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, Bộ luật Dân sự năm 2015 lần đầu ghi nhận việc tách hai loại tài sản và áp dụng chế độ pháp lý độc lập khi trở thành đối tượng của biện pháp thế chấp, cụ thể: (i) Khi thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì tài sản được xử lý bao gồm cả tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác; (ii) Khi thế chấp quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất không đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì khi xử lý quyền sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được tiếp tục sử dụng đất trong phạm vi quyền, nghĩa vụ của mình; quyền và nghĩa vụ của bên thế chấp trong mối quan hệ với chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được chuyển giao cho người nhận chuyển quyền sử dụng đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Thứ ba, về nội dung đăng ký giao dịch bảo đảm (biện pháp bảo đảm) theo quy định của pháp luật hiện hành
Theo quy định tại Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đăng ký biện pháp bảo đảm (Nghị định số 102/2017/NĐ-CP) thì việc đăng ký biện pháp bảo đảm là việc cơ quan đăng ký ghi vào sổ đăng ký hoặc nhập vào cơ sở dữ liệu về việc bên bảo đảm dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đảm. Do đó, đăng ký giao dịch bảo đảm gồm những nội dung sau:
- Các biện pháp bảo đảm phải đăng ký bao gồm: Thế chấp quyền sử dụng đất; thế chấp tài sản gắn liền với đất trong trường hợp tài sản đó đã được chứng nhận quyền sở hữu trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở; cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay; thế chấp tàu biển.
- Các biện pháp bảo đảm được đăng ký khi có yêu cầu gồm: Thế chấp tài sản là động sản khác; thế chấp tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai; bảo lưu quyền sở hữu trong trường hợp mua bán tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai, mua bán tàu bay, tàu biển, mua bán tài sản là động sản khác có bảo lưu quyền sở hữu.
- Cơ quan có thẩm quyền đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bao gồm: (i) Cục Hàng không Việt Nam trực thuộc Bộ Giao thông vận tải thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng tàu bay; (ii) Cục Hàng hải Việt Nam hoặc Chi cục hàng hải, Cảng vụ hàng hải theo phân cấp của Cục Hàng hải Việt Nam trực thuộc Bộ Giao thông vận tải (gọi chung là cơ quan đăng ký tàu biển Việt Nam) thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng tàu biển; (iii) Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai và Văn phòng đăng ký đất đai trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường (gọi chung là Văn phòng đăng ký đất đai) thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất; (iv) Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp (gọi chung là Trung tâm đăng ký) thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng động sản và các tài sản khác không thuộc thẩm quyền đăng ký của các cơ quan nêu trên.
- Phương thức nộp hồ sơ đăng ký biện pháp bảo đảm: Người yêu cầu đăng ký có thể nộp hồ sơ đăng ký biện pháp bảo đảm theo một trong các phương thức sau: Qua hệ thống đăng ký trực tuyến; nộp trực tiếp; qua đường bưu điện; qua thư điện tử trong trường hợp người yêu cầu đăng ký đã được cấp mã số sử dụng cơ sở dữ liệu về biện pháp bảo đảm.
- Thời hạn giải quyết hồ sơ đăng ký biện pháp, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm: Cơ quan đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm có trách nhiệm giải quyết hồ sơ đăng ký, cung cấp thông tin trong ngày nhận hồ sơ hợp lệ, nếu nhận hồ sơ sau 15 giờ, thì hoàn thành việc đăng ký, cung cấp thông tin ngay trong ngày làm việc tiếp theo; trường hợp phải kéo dài thời gian giải quyết hồ sơ, thì cũng không quá 03 ngày làm việc. Trường hợp nộp hồ sơ đăng ký biện pháp bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất tại Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc nộp hồ sơ tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, thì thời hạn giải quyết hồ sơ đăng ký được tính từ ngày Văn phòng đăng ký đất đai nhận hồ sơ do Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc do bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa chuyển đến.
- Đối với công bố thông tin về biện pháp bảo đảm, chậm nhất 05 ngày làm việc, kể từ thời điểm đăng ký biện pháp bảo đảm bằng dự án đầu tư xây dựng nhà ở, dự án đầu tư xây dựng công trình, Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm gửi thông tin cho Sở Tài nguyên và Môi trường để công bố trên trang thông tin điện tử của Sở này. Thông tin được công bố gồm: Tên dự án, địa chỉ của dự án, bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm, tài sản bảo đảm, thời điểm đăng ký…
2. Một số bất cập và giải pháp khắc phục
Một là, các quy định pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm nằm rải rác tại nhiều văn bản khác nhau dẫn đến việc tra cứu, áp dụng pháp luật còn gặp nhiều khó khăn. Liên quan đến đăng ký giao dịch bảo đảm thì có Nghị định số 102/2017/NĐ-CP; Thông tư số 08/2018/TT-BTP ngày 20/6/2018 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm, hợp đồng và trao đổi thông tin về đăng ký biện pháp bảo đảm tại các Trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp; Thông tư số 09/2016/TTLT-BTP-BTNMT ngày 23/6/2016 của Bộ Tư pháp - Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất… Vì được quy định ở nhiều văn bản pháp luật nên việc giải thích pháp luật, xác định thẩm quyền, thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm còn tản mạn, chưa thống nhất. Do vậy, nên quy định về vấn đề này thống nhất trong một văn bản cụ thể để cá nhân và doanh nghiệp dễ dàng tra cứu.
Hai là, việc đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện ở nhiều cơ quan khác nhau tùy thuộc vào mỗi loại tài sản thế chấp hay cầm cố. Đối với tài sản bảo đảm là bất động sản thì tiến hành đăng ký tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường. Trong khi đó, đối với loại tài sản là động sản nói chung thì tiến hành đăng ký tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp. Đối với tài sản bảo đảm là tàu bay, tàu biển thì việc đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện tại Cục Hàng không Việt Nam, Cục Hàng hải Việt Nam hoặc Chi cục hàng hải Cảng vụ hàng hải thuộc Cục Hàng hải Việt Nam. Và đang có một thực tế là, có doanh nghiệp phải thế chấp, cầm cố nhiều tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ tại một ngân hàng thì doanh nghiệp buộc phải đi đến nhiều cơ quan để thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm, nên chi phí, thời gian để đăng ký việc thế chấp, cầm cố tài sản của doanh nghiệp bị tăng lên, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình hoàn thành thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm.
Bên cạnh đó, cũng chính từ việc phân chia nhiều cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm dẫn đến tình trạng thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm tại nhiều địa phương không thống nhất. Thực tế, cùng một loại tài sản bảo đảm, đặc biệt là tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, mỗi nơi có sự hướng dẫn khác nhau về hồ sơ, giấy tờ thủ tục chưa đúng với quy định. Trong một số trường hợp, thời gian tiếp nhận hồ sơ đăng ký giao dịch bảo đảm chưa tuân thủ đúng quy định, một số cơ quan lại quy định một cách cứng nhắc là chỉ nhận hồ sơ vào một số ngày nhất định trong tuần, gây khó khăn cho người đi đăng ký. Do đó, nên quy định thống nhất thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm để tiết kiệm chi phí và thời gian đi lại cho cá nhân và doanh nghiệp.
Ba là, đối với việc tra cứu thông tin về giao dịch bảo đảm cũng gây không ít khó khăn cho cá nhân và doanh nghiệp. Hiện đăng ký giao dịch bảo đảm được chia thành loại tài sản là động sản và bất động sản và được thực hiện bởi nhiều cơ quan đăng ký khác nhau. Đối với trường hợp nhiều tài sản khác nhau cùng để bảo đảm nghĩa vụ thì ngân hàng sẽ phải tiến hành thủ tục tra cứu tại nhiều cơ quan khác nhau. Vì vậy, nên quy định thống nhất đầu mối cung cấp thông tin để cá nhân và doanh nghiệp dễ dàng truy cập khi có nhu cầu.
ThS. Đoàn Thị Ngọc Hải
Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình