1. Khái quát về hoạt động cho vay ngang hàng
1.1. Định nghĩa cho vay ngang hàng
Cho vay ngang hàng là hoạt động thực hiện trên nền tảng công nghệ tài chính (Fintech) được thiết kế và xây dựng theo phương thức kết nối trực tiếp giữa người đi vay và người cho vay mà không thông qua các trung gian tài chính như tổ chức tín dụng (hay còn gọi là dịch vụ P2P Lending). Xét dưới góc độ tài chính, cho vay ngang hàng là một giải pháp mới của ngành tài chính hiện nay, đây là phương thức cho vay giữa người có vốn và người cần vốn thông qua nền tảng công nghệ, trong đó tổ chức cung cấp dịch vụ cho vay ngang hàng chỉ kết nối hai bên, cung cấp thông tin, đánh giá tín nhiệm về khoản vay, tư vấn, không phải người quyết định cho vay cuối cùng và chỉ hưởng phí (không hưởng lãi)[1]. Dưới góc độ đầu tư, cho vay ngang hàng là hoạt động kết nối đầu tư hiệu quả bên cạnh hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng và kết nối trực tiếp nhà đầu tư với bên cần vốn đầu tư thông qua một website[2].
1.2. Đặc điểm của hoạt động cho vay ngang hàng
Cho vay ngang hàng có những đặc điểm khác với các hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng truyền thống:
Thứ nhất, cho vay ngang hàng có sự tham gia của các bên: (i) Bên trung gian (nhà cung ứng dịch vụ/công nghệ/ứng dụng); (ii) Bên cho vay; (iii) Bên vay. Theo đó, các chủ thể tham gia sẽ giao dịch thông qua hệ thống ứng dụng công nghệ hoặc một website do bên trung gian cung ứng để kết nối “các lệnh” cho vay và cần vay.
Thứ hai, đối tượng hướng tới là những khoản vay không quá lớn, thường dành cho các đối tượng như sinh viên, lao động phổ thông, nông dân, các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh nhỏ... là đối tượng không đáp ứng được điều kiện vay khắt khe của các tổ chức tín dụng hoặc cần vốn gấp. Thời hạn vay không quá dài, trung bình từ 01 tháng đến 02 năm và mức lãi suất khác nhau tùy vào từng loại khách hàng[3].
Thứ ba, cho vay ngang hàng có bản chất là một hoạt động tín dụng nhưng ở mô hình này, người cho vay ngoài được quyền hưởng lãi suất từ khoản đầu tư ra thì còn được định đoạt khoản vay của mình (ưu điểm không có ở hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng) bằng cách chấp nhận giải ngân cho đối tượng được lựa chọn sau khi nhà đầu tư đã nắm được thông tin liên quan từ người có nhu cầu vay vốn.
1.3. Ưu điểm, hạn chế của hoạt động cho vay ngang hàng
Thực tiễn hoạt động cho thấy, cho vay ngang hàng từ khi xuất hiện và phát triển đã đem lại nhiều sự thuận tiện hơn trong lĩnh vực tài chính, cơ hội mới cho nền kinh tế như: (i) Đối với chủ thể có nhu cầu vay vốn sẽ được tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính với thời gian nhanh, thủ tục đơn giản, điều kiện vay tương đối dễ dàng; (ii) Nhà đầu tư có thêm kênh đầu tư hiện đại với lãi suất linh động; (iii) Nâng cao chất lượng phục vụ của các tổ chức tài chính truyền thống dựa trên nền tảng công nghệ thông tin, tăng cạnh tranh giữa các công ty cho vay ngang hàng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng; (iv) Làm thay đổi cách thức quản lý, tăng khả năng giám sát, thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, song hành với những thuận lợi là rủi ro mà các chủ thể liên quan phải đối mặt:
- Phương thức hoạt động cho vay hoàn toàn mới và đơn giản, sự điều chỉnh pháp luật chưa rõ ràng đã tạo nên “lỗ hổng” rất lớn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của các bên. Đối với bên vay, nếu bên vay không tìm hiểu kỹ những điều khoản về phí, lãi suất, thời hạn vay, điều kiện vay và bên cung ứng dịch vụ thì rất có thể bên vay mất khả năng chi trả dẫn đến phải chịu những hình thức đòi nợ “khủng bố” theo kiểu tín dụng đen. Bên cạnh đó, nỗi lo lắng nhất của nhà đầu tư (bên cho vay) là mất nguồn vốn đã đầu tư bởi lẽ hiện nay chưa có căn cứ pháp lý chứng minh giao dịch vay có tồn tại.
- Pháp luật đã có những quy định rất khắt khe về điều kiện kinh doanh, chủ thể kinh doanh, hợp đồng vay vốn, tài sản bảo đảm, các loại quỹ dự phòng rủi ro, bảo hiểm tiền gửi khi xảy ra nguy cơ mất vốn, cơ chế kiểm soát khi các tổ chức tín dụng rơi vào tình trạng phá sản... cho các tổ chức tín dụng nhưng hoạt động cho vay ngang hàng thông qua nền tảng ứng dụng lại chưa có quy định điều chỉnh và cơ chế kiểm soát cụ thể.
- Chưa có quy định chặt chẽ về mức lãi suất vay và phí phải trả, theo đó các bên tự thỏa thuận nên dễ gây ra tình trạng biến tướng thành tín dụng đen, với lãi suất “cắt cổ” người đi vay. Ví dụ mức lãi suất vay đưa ra dao động từ 15% - 20%/1 năm - đây là mức phù hợp với quy định của pháp luật dân sự, tuy nhiên, các loại phí phái sinh cộng lại khiến cho mức chi phí lãi + phí lên đến 200%, điều này đã và đang gây hệ lụy rất lớn cho các chủ thể liên quan và trật tự xã hội.
- Các vấn đề về bảo mật thông tin cá nhân, quyền lợi của các bên tham gia khi cung cấp tài khoản và các khoản tài chính khác chưa có cơ chế và quy định rõ ràng... Luật An ninh mạng có hiệu lực từ ngày 01/01/2019, đưa ra quy định những hành vi được cho là vi phạm trong lĩnh vực bảo mật thông tin, tuy nhiên, để bảo đảm an toàn trong toàn hệ thống thì cần có cơ chế pháp luật liên ngành để bảo đảm tính đồng bộ và quyền của các chủ thể khi tham gia bao hệ thống ứng dụng cho vay trực tuyến.
2. Những vấn đề pháp lý đặt ra đối với hoạt động cho vay ngang hàng tại Việt Nam
2.1. Thực tiễn hoạt động cho vay ngang hàng tại Việt Nam
Xuất hiện từ năm 2017 và được đánh giá là một trong những quốc gia có sự phát triển ngành công nghệ tài chính muộn hơn so với các nước khác nhưng hoạt động cho vay ngang hàng ở Việt Nam có dư địa rất lớn để phát triển, đặc biệt là tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh... Theo thống kê của Trung tâm nghiên cứu kinh tế - Ngân hàng thương mại Hàng hải Việt Nam (MSB), Việt Nam hiện có khoảng 40 công ty cho vay ngang hàng đang hoạt động, trong đó có 10 công ty có nguồn gốc từ Trung Quốc, một số công ty từ Indonesia và Singapore[4], được đăng ký dưới các ngành nghề kinh doanh khác như tư vấn quản lý hay tư vấn tài chính; trong đó phải kể đến các công ty như Tima, Fiin, Mofin, Lenbiz…
Trong Công văn số 5228/NHNN-CSTT ngày 08/7/2019 của Ngân hàng Nhà nước về hoạt động cho vay ngang hàng gửi các tổ chức tín dụng chỉ rõ: “Tại Việt Nam, một số công ty đăng ký ngành nghề kinh doanh là tư vấn tài chính, môi giới tài chính và tự giới thiệu là các công ty P2P Lending cung cấp dịch vụ kết nối nhà đầu tư và người đi vay; tuy nhiên pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có quy định về hoạt động P2P Lending”. Như vậy, Ngân hàng Nhà nước đưa ra khẳng định này chứng tỏ các công ty đang thực hiện hoạt động cho vay ngang hàng ở Việt Nam đều là chưa được cấp phép, điều này dẫn đến các rủi ro chính như sau:
Thứ nhất, rủi ro về nguồn tài chính cho vay: Hiện nay, các công ty P2P Lending thực hiện hoạt động cho vay bằng nguồn tài chính của chính họ, do đó cơ quan chức năng khó kiểm tra được nguồn gốc tài chính, dễ có tình trạng không minh bạch hoặc có hành vi rửa tiền, tài trợ khủng bố…
Thứ hai, về lãi suất và phí đầu tư, cho vay: Theo quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định về mức lãi suất “trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực”. Tuy nhiên, thực tế hiện nay nhiều ứng dụng vay tiền trực tuyến có mức lãi suất lên tới xấp xỉ 44,1%/tháng, quy đổi theo năm thì phải trả lãi lên tới 529,2%, thậm chí nhiều ứng dụng vay tiền còn không công khai lãi suất và phí cho vay, chỉ đưa ra thông tin “vay càng nhiều, phí và lãi suất càng ít” (Robcash.vn)[5]. Việc đưa thông tin không đầy đủ với người tiêu dùng được cho là có hành vi lừa đảo khách hàng, kinh doanh không lành mạnh hay núp bóng sau đó là hàng loạt các hành vi bất hợp pháp khác đặc biệt là tín dụng đen[6].
Thứ ba, về nền tảng giao dịch trực tuyến: Hệ thống kiểm soát an ninh mạng của Việt Nam còn chưa đồng bộ, lỏng lẻo dẫn đến tình trạng thông tin cá nhân của các bên chưa được bảo mật và bảo vệ quyền lợi nếu có rủi ro xảy ra.
2.2. Cơ chế pháp lý đối với hoạt động cho vay ngang hàng tại Việt Nam
Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có cơ chế pháp lý đồng bộ điều chỉnh riêng hoạt động cho vay ngang hàng, theo đó: (i) Mô hình hoạt động của các công ty P2P Lending được thành lập và đăng ký ngành nghề kinh doanh theo pháp luật doanh nghiệp; (ii) Về lãi suất cho vay chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự; (iii) Huy động vốn vay của nhà đầu tư là chịu sự điều chỉnh của pháp luật về tổ chức tín dụng. Hình thức này chưa được ghi nhận đây là hoạt động cấp tín dụng theo Luật Tổ chức tín dụng nên không được Ngân hàng Nhà nước cấp phép hoạt động huy động vốn. Tuy nhiên, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã xác định được tác động tích cực của hệ thống công nghệ tài chính Fintech nói chung và P2P Lending nói riêng bằng Quyết định số 328/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc thành lập Ban chỉ đạo và Tổ giúp việc Ban chỉ đạo về lĩnh vực công nghệ tài chính của Ngân hàng Nhà nước và Công văn số 5228/NHNN-CSTT quy định hoạt động P2P Lending có thể góp phần hỗ trợ phổ cập tài chính, mở rộng khả năng và tạo thêm kênh tiếp cận nguồn lực tài chính, cách thức cho vay đối với nền kinh tế nhất là đối với các đối tượng yếu thế trong xã hội (có khả năng tiếp cận internet); qua đó có thể góp phần đẩy lùi tình trạng “tín dụng đen”. Ngày 12/8/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 999/QĐ-TTg phê duyệt Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ, theo đó giao Ngân hàng Nhà nước chủ trì nghiên cứu, xây dựng đề án cơ chế quản lý thử nghiệm cho hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng. Ngày 08/7/2020, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 1238/QĐ-NHNN ban hành kế hoạch hoạt động của Ngành Ngân hàng triển khai thực hiện Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 17/4/2020 của Chính phủ về ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có quy định cơ chế thử nghiệm có kiểm soát đối với hoạt động Fintech, theo đó, Quyết định quy định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng, làm rõ nhiều vấn đề: Khái niệm về Fintech, điều kiện để tham gia mô hình RSF, cơ quan chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp, trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận tham gia và đăng ký... Trong đó, Quyết định ghi nhận cho vay ngang hàng là một trong những lĩnh vực được đưa vào thử nghiệm[7].
3. Đề xuất xây dựng khung pháp lý về cho vay ngang hàng ở Việt Nam
Năm 2007, Trung Quốc là quốc gia đầu tiên ở châu Á phát triển mô hình cho vay ngang hàng. Đến năm 2011, cho vay ngang hàng ở Trung Quốc bùng nổ, phát triển vượt bậc trên mọi khía cạnh, từ số lượng nhà đầu tư, đến nền tảng cho vay và lợi nhuận kinh doanh. Tính đến cuối năm 2017, có hơn 1.000 tỷ nhân dân tệ được cho vay từ các tổ chức cho vay ngang hàng[8]. Tuy nhiên sự phát triển này là bất ổn và nguy hiểm, nguyên nhân chính được chỉ ra là do cách nhìn nhận sai lầm của chính phủ Trung Quốc khi coi P2P Lending chỉ là “hệ thống trao đổi thông tin khoản vay” nên trách nhiệm của các công ty cho vay ngang hàng chưa cao cùng với lỗ hổng của pháp luật đã tạo điều kiện cho chủ sở hữu công ty cho vay ngang hàng ôm tiền bỏ trốn, người cho vay không tuân thủ giao dịch vay, hệ thống cho vay không đảm bảo an ninh... đã làm cho nhiều nạn nhân chủ yếu là các nhà đầu tư bị mất số tiền đầu tư[9]. Khắc phục tình trạng này, Trung Quốc đã bổ sung 10 biện pháp tăng cường kiểm soát như: Cấm mở thêm các website trực tuyến; tăng cường hình thức phạt đối với công ty P2P có hành vi lừa đảo; thiết lập chương trình bồi dưỡng cho nhà đầu tư khi các công ty P2P phá sản, đưa ra quy định các biện pháp tạm thời quản lý hoạt động kinh doanh của các trung gian thông tin cho vay ngang hàng… Những điều chỉnh này đã phần nào làm cho các công ty P2P Lending hoạt động đúng mục đích, phương thức, tuân thủ pháp luật và đạo đức kinh doanh nhằm phát triển nền kinh tế Trung Quốc. Kết quả của hoạt động quản lý này đã cho thấy trong tình hình dịch Covid-19 thì giao dịch qua các công ty tài chính bằng nền tảng ứng dụng đã đem lại những hiệu quả tích cực.
Để đảm bảo được hệ thống cho vay ngang hàng vận hành và có hành lang pháp lý cụ thể, Việt Nam cần nghiên cứu và xây dựng được 02 cơ chế sau: (i) Hệ thống pháp lý để điều chỉnh hoạt động cho vay ngang hàng; (ii) Cơ quan quản lý, giám sát, bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia, cụ thể:
Một là, quy định về đăng ký ngành nghề kinh doanh: Cần bổ sung danh mục ngành nghề hoạt động trong lĩnh vực P2P nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các chủ thể và hệ sinh thái khởi nghiệp hỗ trợ nền tài chính. Đồng thời, xác định cụ thể cơ quan có thẩm quyền cấp phép và quản lý hoạt động P2P.
Hai là, quy định về lãi suất và phí cho vay: Lãi suất cho vay tín dụng khác với lãi suất cho vay dân sự, vậy nếu xét các công ty P2P Lending như tổ chức tín dụng thì mức lãi suất tín dụng cần tuân theo lãi suất theo quy định của Ngân hàng nhà nước như đối với các tổ chức tín dụng, từ đó sẽ đảm bảo quyền hưởng lợi tức của nhà đầu tư đối với khoản đầu tư và lãi phải trả đối với người đi vay, cơ quan nhà nước cũng dễ dàng phát hiện hành vi tín dụng đen để có những biện pháp ngăn chặn, xử lý phù hợp. Bên cạnh đó, cần có quy định về loại phí và mức phí được thu của khách hàng, không để tình trạng các công ty cho vay ngang hàng tự đưa ra mức phí cao thậm chí vượt quá khả năng chi trả của người vay.
Ba là, cần có cơ chế pháp lý quản lý nền tảng công nghệ số: Cần có cơ chế giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với công ty cho vay ngang hàng, các dữ liệu về thông tin khoản vay và thông tin cá nhân phải được quản lý, báo cáo lên cơ quan quản lý trực tiếp. Nên thiết lập nguồn quỹ dự phòng rủi ro trong trường hợp xảy ra mất dữ liệu hoặc lỗi hệ thống thông tin.
Bốn là, quy định chủ thể chịu trách nhiệm: Việc xác định công ty P2P như một trung gian tài chính hay chỉ đơn giản là bên môi giới và cung ứng nền tảng cho vay có nghĩa vụ kết nối giữa người cần vốn và người có vốn lại với nhau là một việc rất quan trọng trong việc truy cứu trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm sẽ thuộc về ai khi có rủi ro, mất mát nguồn vốn đầu tư, vi phạm nghĩa vụ, đương sự trong giải quyết tranh chấp... cần được làm rõ một cách chính xác.
Năm là, nâng cao công tác tuyên truyền: Việt Nam vẫn chưa thừa nhận tính hợp pháp của hoạt động cho vay ngang hàng như một hoạt động tín dụng nên cần phổ biến cho người dân về những thuận lợi và rủi ro mà mô hình cho vay này đem lại để từ đó nâng cao nhận thức của người dân, giúp họ có kiến thức trong việc vay vốn và có những biện pháp tự bảo vệ, tránh sa vào bẫy của tín dụng đen.
Hoạt động cho vay ngang hàng hiện nay đã bị các hành vi phạm tội như rửa tiền, tài trợ khủng bố, cho vay nặng lãi, hoạt động tín dụng đen, cho vay cầm đồ thực hiện lợi dụng biến tướng gây ra nhiều hệ lụy rủi ro pháp lý cho cả bên vay và bên đi vay... Do đó, cơ quan quản lý trực tiếp hoạt động này ở Việt Nam là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần đưa ra các giải pháp xây dựng hành lang pháp lý theo dõi, giám sát hoạt động thử nghiệm, phối hợp với các cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền liên quan như Bộ Công an, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tư pháp, Tòa án, Viện kiểm sát... để đưa ra đánh giá tác động, từ đó làm căn cứ xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện cho hoạt động cho vay ngang hàng.
Nguyễn Thị Thúy Hường
Đại học Mở Hà Nội
[1]. Nguyễn Cảnh Dương, Nguyễn Thị Kim Sang (2019), “Hoạt động cho vay ngang hàng - P2P Lending biến tướng thành tín dụng đen: Thực trạng và giải pháp”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia “Hạn chế tín dụng đen tại Việt Nam” của Trường Đại học Kinh tế quốc dân năm 2019, tr.280.
[2]. Nguyễn Hải Yến (2019), “Pháp luật về cho vay ngang hàng thực tiễn của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Luật học, (số đặc biệt), tr.107.
[3]. Phạm Thanh Nhật (2018),“Mô hình cho vay ngang hàng và những khuyến nghị với Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia “Hoạt động ngân hàng trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 của trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh”, tr.255.
[4]. Nguyễn Thị Ngọc Liên (2019), “Mô hình cho vay ngang hàng ở Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế châu Á, (05), tr.95.
[5]. Nguyễn Cảnh Dương, Nguyễn Thị Kim Sang (2019), “Hoạt động cho vay ngang hàng - P2P lending biến tướng thành tín dụng đen: Thực trạng và giải pháp”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia “Hạn chế tín dụng đen tại Việt Nam” của Trường Đại học Kinh tế quốc dân năm 2019, tr.280.
[6]. Biến tướng cho vay qua app: Có thể xử lý hình sự khi chờ thí điểm, https://laodong.vn/kinh-te/bien-tuong-cho-vay-qua-app-co-the-xu-ly-hinh-su-khi-cho-thi-diem-815224.ldo, truy cập ngày 02/10/2020.
[7]. http://dean844.most.gov.vn/du-thao-nghi-dinh-ve-co-che-thu-nghiem-co-kiem-soat-hoat-dong-cong-nghe-tai-chinh-trong-linh-vuc-ngan-hang.htm, truy cập ngày 26/11/2020.
[8]. Huỳnh Thu Hiền (2019), “Cho vay ngang hàng tại thị trường tài chính Trung Quốc và kinh nghiệm cho Việt nam”, Tạp chí Tài chính, (06), tr.164.
[9]. Lê Huyền Ngọc (2019), “Cho vay ngang hàng tại Trung Quốc và khuyến nghị cho Việt Nam”, Tạp chí Công thương, (15), tr. 161.