Ở Việt Nam, sự xuất hiện và phát triển không ngừng của thương mại điện tử (TMĐT) đã tạo ra những thay đổi có tính đột phá trong nền kinh tế thị trường, làm mới quan hệ thương mại truyền thống và phát sinh nhiều vấn đề cần phải được điều chỉnh bởi pháp luật và quản lý bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hiện nay, hệ thống quy định pháp luật của Việt Nam về TMĐT đang dần được hoàn thiện, bao trùm điều chỉnh nhiều quan hệ xã hội bao hàm hoặc chịu tác động của thương mại điện tử như: Quan hệ cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thuế, quan hệ hợp đồng, đầu tư, an ninh mạng… Tuy nhiên, để đưa các quy định pháp luật thực sự đi vào cuộc sống cần phải có cơ chế thực thi hiệu quả. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, khi những sáng kiến, phát minh tân tiến liên tục ra đời làm thay đổi nhanh chóng các biểu hiện, sự tồn tại của các quan hệ TMĐT, cần có những giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật về TMĐT để vừa quản lý, vừa thúc đẩy hoạt động này phát triển mạnh mẽ theo định hướng của Đảng và Nhà nước.
1. Các yếu tố tác động đến hiệu lực thi hành pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam
Thứ nhất, tính đầy đủ, đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật về TMĐT: Đây là yếu tố tiên quyết, quan trọng quyết định đến hiệu quả của hoạt động thi hành pháp luật về TMĐT. Lĩnh vực TMĐT mang tính đặc thù, tiềm ẩn nhiều rủi ro trong quá trình giao dịch, kinh doanh, do đó đòi hỏi phải có các giải pháp về mặt kỹ thuật cũng như cơ sở pháp lý đầy đủ để bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia. Theo đó, cần xây dựng chính sách, tạo môi trường thuận lợi trong lĩnh vực thương mại điện tử; xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất và cụ thể để điều chỉnh các quan hệ TMĐT. Chính sách, đường lối định hướng nội dung pháp luật và nội dung pháp luật là cơ sở để các chủ thể có liên quan thi hành trên thực tế. Qua đó, các cơ quan có thẩm quyền có căn cứ để thực hiện chức năng quản lý, giám sát; các cá nhân, tổ chức không lúng túng khi tiếp cận với TMĐT, thực hiện các hành vi có liên quan đến TMĐT một cách đúng đắn, không làm ảnh hưởng đến lợi ích của cá nhân, tổ chức khác cũng như lợi ích chung của cộng đồng. Do vậy, để công tác thi hành pháp luật về TMĐT đạt được hiệu quả cao, cần phải có một hệ thống pháp luật về TMĐT đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, có tính dự liệu, bao quát cao, phù hợp với điều kiện thực tế phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam.
Thứ hai, chất lượng quản lý nhà nước về TMĐT: Để TMĐT phát triển bền vững, cần có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. TMĐT có những đặc thù khác biệt so với thương mại truyền thống, do đó để bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể trong TMĐT cũng như bảo đảm trật tự trong nền kinh tế thì TMĐT cần được Nhà nước quản lý chặt chẽ. Nếu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ về quản lý TMĐT, đồng thời triển khai có hiệu quả các biện pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TMĐT đến các chủ thể trong TMĐT thì pháp luật về TMĐT sẽ thực sự phát huy được hiệu lực và nhanh chóng đi vào đời sống. Do đó, để hoạt động quản lý TMĐT đạt hiệu quả cao thì Nhà nước phải xây dựng hệ thống các cơ quan quản lý từ trung ương đến địa phương, đầu tư hạ tầng công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao nhận thức của xã hội về TMĐT và tạo lập môi trường pháp lý vững chắc.
Thứ ba, ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ TMĐT: Pháp luật về TMĐT có đi vào cuộc sống được hay không phụ thuộc phần nhiều vào ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ TMĐT. Việc tuân thủ pháp luật, thực hiện đúng quy định của pháp luật của các chủ thể gồm: Cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu các website bán hàng, gian hàng trên sàn giao dịch điện tử hoặc kinh doanh trên các trang mạng xã hội, quảng cáo trên các phương tiện truyền thông nhằm mục đích thương mại, người mua hàng hóa, dịch vụ... sẽ bảo đảm không chỉ quyền lợi cho chính họ mà còn bảo đảm trật tự an toàn xã hội, tạo niềm tin cho các cá nhân tổ chức tham gia TMĐT, thúc đẩy TMĐT phát triển theo chiều hướng tích cực.
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 với sự hỗ trợ của sức mạnh số và công nghệ thông tin đã tạo nên những thay đổi đột phá, trở thành chuỗi cung ứng thông minh, đem lại hiệu quả cho nền TMĐT, tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực TMĐT. Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng tạo ra áp lực đổi mới, sáng tạo đối với các nhà kinh doanh TMĐT, bởi vì phải có kiến thức nền tảng thật tốt thì doanh nghiệp mới có thể phân tích sâu sắc vấn đề, đưa ra giải pháp thật sự hiệu quả. Để nắm bắt cơ hội phát triển, để vượt qua những thách thức, cần xây dựng và áp dụng các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về TMĐT, cụ thể:
Thứ nhất, nhanh chóng hoàn thiện các quy định pháp luật về TMĐT, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các cơ quan quản lý, các chủ thể tham gia quan hệ TMĐT áp dụng, thực thi trên thực tế.
Với những điểm mới[1] của Nghị định số 85/2021/NĐ-CP ngày 25/9/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 của Chính phủ về TMĐT đã góp phần hạn chế phần nào những “lỗ hổng” của pháp luật về TMĐT từ trước đến nay. Tuy nhiên, trong thời gian tới, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về TMĐT, cụ thể như: Rà soát, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến quản lý thuế trong TMĐT; quản lý hải quan đối với các hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thông qua hoạt động TMĐT; quản lý mạng xã hội có hoạt động TMĐT; các quy định về giao dịch điện tử, thanh toán điện tử, điều chỉnh, bổ sung quy định về chế tài xử lý vi phạm đối với một số hành vi vi phạm pháp luật về TMĐT trên mạng xã hội...
Thứ hai, tăng cường năng lực và hiệu quả công tác của cơ quan quản lý nhà nước về thương mại điện tử cho phù hợp với yêu cầu thực tế.
Sự phát triển của TMĐT cùng với sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 làm phát sinh các đối tượng điều chỉnh mới, với những biểu hiện tồn tại đa dạng và liên tục thay đổi, đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước cần phải có cách tiếp cận mới và phương pháp quản lý mới. Do quản lý TMĐT nhất thiết và cần thiết phải thực hiện trên nền tảng số nên các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phải ứng dụng công nghệ để thực hiện chức năng quản lý và luôn nắm rõ được sự thay đổi công nghệ trong suốt quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ban, ngành trong việc xử lý, giải quyết các vấn đề liên quan đến TMĐT, đặc biệt là đối với việc thu thuế những người kinh doanh trên mạng xã hội[2]. Để thực hiện hiệu quả nội dung này, cần đẩy mạnh việc triển khai chính quyền điện tử, chính quyền số tạo cơ sở quản lý tốt hơn đối với hoạt động TMĐT trên phạm vi toàn quốc.
Ngoài ra, cần thực hiện nghiêm túc, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực TMĐT để triệt tiêu tận gốc những vi phạm trong hoạt động TMĐT. Các cơ quan quản lý nhà nước liên quan phải nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong giao dịch điện tử; phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng giao dịch điện tử để lừa đảo, xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng. Việc giám sát hoạt động TMĐT được tiến hành trực tuyến trên môi trường mạng bằng phương tiện điện tử, thiết bị số với các nội dung chính là: (i) Giám sát việc chấp hành pháp luật về TMĐT của tổ chức, cá nhân trực tiếp tham gia hoặc có liên quan đến hoạt động TMĐT; (ii) Giám sát tình hình hoạt động TMĐT trên môi trường mạng; (iii) Giám sát hoạt động của website TMĐT; hoạt động của phần mềm, ứng dụng TMĐT cài đặt trên phương tiện điện tử, thiết bị số; (iv) Giám sát hoạt động kinh doanh phần mềm, ứng dụng, thông tin số, nội dung số, xuất bản phẩm điện tử trên môi trường mạng; (v) Giám sát hoạt động ứng dụng, chuyển giao công nghệ trong TMĐT; (vi) Giám sát hoạt động đánh giá tín nhiệm website TMĐT, hoạt động đánh giá và chứng nhận chính sách bảo vệ thông tin cá nhân, hoạt động chứng thực hợp đồng điện tử; (vii) Giám sát an toàn thông tin trong hoạt động TMĐT.
Thứ ba, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ của đội ngũ công chức trong các cơ quan quản lý nhà nước về TMĐT.
TMĐT càng phát triển, hoạt động giao dịch thương mại càng dễ dàng thì càng đem lại thách thức lớn cho công tác quản lý. Do đó, cần chú trọng đến việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trực tiếp quản lý hoạt động này. Việc đào tạo bồi dưỡng trước hết tập trung vào vấn đề nâng cao nhận thức, hiểu biết, có khả năng phân tích, dự liệu những ảnh hưởng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đến sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, lĩnh vực TMĐT nói riêng; đồng thời, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn sâu về công nghệ thông tin cũng như các kiến thức pháp luật cần thiết về TMĐT. Quá trình đào tạo, bồi dưỡng phải được tiến hành thường xuyên để nhanh chóng bắt kịp với sự phát triển của công nghệ điện tử. Để đạt được hiệu quả cao, cần kết hợp kiểm tra, giám sát, cấp chứng chỉ theo những điều kiện nhất định để nâng cao trách nhiệm của cán bộ trong việc học tập, coi đây là nhiệm vụ cần phải hoàn thành.
Thứ tư, nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật của các chủ thể trong quan hệ TMĐT.
Có thể thấy, một trong những khó khăn, bất cập ảnh hưởng đến việc phát triển TMĐT bền vững, an toàn và hiệu quả ở nước ta thời gian qua là nhận thức và ý thức tuân thủ pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ TMĐT còn hạn chế. Bởi vậy, để khắc phục tình trạng trên, các doanh nghiệp kinh doanh TMĐT ngoài việc thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật, cần phải tập trung đầu tư nhiều hơn nữa cho việc phát triển hoạt động TMĐT, trong đó cần phải xây dựng được lòng tin đối với người tiêu dùng, thường xuyên đổi mới và nâng cao chất lượng dịch vụ cũng như sản phẩm để bảo đảm quyền lợi cho khách hàng; đặc biệt, cần cam kết bảo mật thông tin, tôn trọng sự riêng tư, giao hàng đúng nơi, đúng hạn, trả lời và giải quyết các khiếu nại của người tiêu dùng một cách kịp thời, thỏa đáng... Về phía người tiêu dùng, cần phải có những kiến thức nhất định để thực hiện các giao dịch điện tử an toàn, tránh bị kẻ gian lợi dụng lừa đảo. Cùng với đó, phải tích cực có những phản hồi, đánh giá đúng đắn về các nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ qua mạng; xây dựng văn hóa bài trừ hàng giả, hàng nhái, không gián tiếp tiếp tay cho những chủ thể kinh doanh hàng giả, hàng nhái trên mạng điện tử.
Để nâng cao nhận thức và ý thức của các cá nhân tổ chức tham gia vào hoạt động TMĐT, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về TMĐT một cách thường xuyên, liên tục, với nhiều hình thức đa dạng và dễ hiểu, phù hợp với từng đối tượng. Trong thời đại công nghệ phát triển, việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TMĐT cũng nên gắn với những phương thức hiện đại hóa thông qua các ứng dụng công nghệ số như: Hình ảnh, video đăng tải trên các webside/ứng dụng; các chuyên mục tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông đại chúng; gửi tin nhắn, thông báo qua phần mềm Zalo, Facebook... Hiện nay, các ngân hàng thường có cách tuyên truyền thông qua tin nhắn gửi trên phần mềm Internet banking với những nội dung liên quan đến việc cảnh báo và hướng dẫn khách hàng nhận diện các hành vi lừa đảo liên quan đến thanh toán điện tử. Cách làm này giúp cho người tiêu dùng nhanh chóng tiếp nhận được thông tin và bảo vệ được quyền lợi của bản thân. Đây cũng là giải pháp hiệu quả có thể sử dụng trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TMĐT. Nội dung tuyên truyền, phổ biến có thể chia nhỏ theo từng vấn đề, từng đối tượng, không nhất thiết phải là những chuyên đề dài như hội nghị, hội thảo.
Mặt khác, pháp luật cần quy định cụ thể về nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của các cơ quan liên quan cũng như Ủy ban nhân dân các cấp để cung cấp những kiến thức, những kỹ năng cần thiết cho các chủ thể tham gia hoạt động TMĐT để họ có thể chủ động chấp hành, tuân thủ pháp luật một cách tự giác, thường trực cũng như có thể tự bảo vệ mình khi tham gia hoạt động TMĐT. Khi việc tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật đúng phương pháp, các cá nhân tổ chức còn có những phản hồi kịp thời để sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp và quan trọng hơn là các chủ thể này còn có ý thức tự bảo vệ nhau bằng những cảnh báo cho mọi người kịp thời để tránh các rủi ro. Phải có nguồn kinh phí phù hợp và chính sách đào tạo kỹ năng cho chính những người làm công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong các cơ quan có chức năng đảm trách nhiệm vụ này bằng các quy định pháp luật.
Thứ năm, phát huy vai trò của các tổ chức phi Chính phủ trong việc nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật TMĐT.
Các hội, hiệp hội phi Chính phủ có liên quan đến TMĐT (điển hình là: Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM)), không có thẩm quyền áp dụng pháp luật nhưng lại có vai trò rất quan trọng trong việc tác động đến nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật và văn hóa kinh doanh của các hội viên. Hội viên của tổ chức này thường là các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân trực tiếp kinh doanh bằng TMĐT hoặc là bên cung ứng ứng dụng TMĐT phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh, cung cấp các dịch vụ về TMĐT. Phạm vi hoạt động của tổ chức trải rộng trên cả nước, do vậy sẽ dễ dàng thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến các kiến thức về TMĐT cũng như các quy định của pháp luật về TMĐT; đồng thời, tiếp nhận các phản hồi từ những thành viên về thực trạng pháp luật, thực tiễn thi hành pháp luật TMĐT ở Việt Nam và trên cơ sở đó, có những đóng góp trong việc xây dựng, sửa đổi pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội trong lĩnh vực này. Đây cũng là kênh thông tin quan trọng, hỗ trợ đắc lực cho các chủ thể tham gia TMĐT các kiến thức pháp luật để chấp hành pháp luật cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chính vì thế, các cơ quan nhà nước cần khuyến khích, tạo điều kiện phát triển và giữ mối liên hệ với các tổ chức này để phát huy được vai trò của họ trong việc tăng cường hiệu quả công tác thi hành pháp luật về TMĐT.
Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế về TMĐT và các lĩnh vực liên quan.
Để bắt kịp sự phát triển của thế giới trong lĩnh vực này, cũng như nâng cao hiệu quả quản lý TMĐT phù hợp với yêu cầu hội nhập, Việt Nam cần tích cực hợp tác quốc tế về TMĐT. Giải pháp đưa ra là, tiếp tục thực hiện những chương trình hợp tác với các tổ chức kinh tế thương mại quốc tế và khu vực, các tổ chức thương mại của Liên Hợp quốc, đối tác trong các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết. Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các doanh nghiệp hợp tác với các đối tác nước ngoài tạo môi trường phát triển TMĐT quốc tế, tăng cường hoạt động kinh doanh trực tuyến qua biên giới và chuyển giao công nghệ. Tăng cường trao đổi, học tập kinh nghiệm các quốc gia tiên tiến về xây dựng và thực thi pháp luật về TMĐT; liên kết hợp tác trong các chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho cơ quan quản lý nhà nước về thương mại điện tử[3]. Do đó, cần tiếp tục thực hiện và mở rộng phạm vi đối thoại với các quốc gia trên thế giới để có thêm những kinh nghiệm quý báu, những thông tin hữu ích phục vụ cho từng giai đoạn phát triển của đất nước trong lĩnh vực TMĐT.
Hơn hai thập kỷ kể từ khi TMĐT có mặt và phát triển tại Việt Nam, Nhà nước ta đã rất nỗ lực trong việc thể chế hóa và đưa những quy định pháp luật về TMĐT vào trong đời sống kinh - xã hội. Tuy nhiên, với tính chất đặc thù, cũng như đặc điểm cấu trúc phát triển phức tạp, hoạt động TMĐT vẫn luôn đặt ra những “bài toán khó” trong công tác quản lý. Trong những giai đoạn phát triển tiếp theo, để đạt được hiệu quả cao trong việc thi hành pháp luật về TMĐT, cần tiếp tục đánh giá thực trạng pháp luật, thi hành pháp luật để nhìn nhận rõ những hạn chế còn tồn tại, tìm ra nguyên nhân của các hạn chế đó để xây dựng các giải pháp phù hợp. Bức tranh toàn cảnh của TMĐT trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã chỉ ra tiềm năng và thách thức đối với Việt Nam, do đó, cần tập trung nguồn lực để bảo đảm thực hiện mục tiêu kép là xây dựng cơ chế điều chỉnh, quản lý hiệu quả đối với TMĐT kết hợp với thúc đẩy phát triển lĩnh vực này một cách mạnh mẽ.
ThS. Võ Thị Hồng Lan
Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội
ThS. Nguyễn Thị Huyền Trang
Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc
[1]. Như: Có thêm chủ thể của hoạt động thương mại điện tử là dịch vụ logistic; quy định cụ thể về trách nhiệm cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ của người bán; bắt buộc công bố về chính sách kiểm hàng trên website thương mại điện tử; các hoạt động mua bán hàng hóa trên mạng xã hội Facebook, Instagram, Zalo… trở thành đối tượng được điều chỉnh của pháp luật thương mại điện tử, người tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp các hoạt động mua bán phải trả phí và thực hiện đăng ký theo quy định; bổ sung trách nhiệm của thương nhân, tổ chức cung cấp sàn giao dịch thương mại điện tử; đăng ký thiết lập website thương mại điện tử chỉ cần nộp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh bản sao; quy định chi tiết về thủ tục đăng ký hoạt động chứng thực hợp đồng điện tử; quy định thêm về hoạt động thương mại điện tử của thương nhân, tổ chức nước ngoài.
[2]. Ví dụ: Cục Thuế cần phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Công Thương, các nhà mạng và ngân hàng cùng quản lý, giám sát số lượng hàng hóa, doanh thu của người kinh doanh để đối chiếu với việc kê khai của người nộp thuế.
[3]. Ví dụ, từ năm 2011, Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số và Cục Chính sách thương mại và Thông tin Nhật Bản đã thường xuyên trao đổi, hợp tác thông qua Chương trình Đối thoại chính sách pháp luật TMĐT và kinh tế số. Thông qua các cuộc đối thoại, phía Việt Nam có cơ hội được tìm hiểu, trao đổi về các giải pháp chuyển đổi số, phát triển TMĐT trong đó bao hàm cả nội dung thực thi pháp luật TMĐT qua từng thời kì. Chương trình đem lại hiệu quả thiết thực cho việc định hướng phát triển và quản lý hoạt động TMĐT ở Việt Nam.