Thứ sáu 20/06/2025 11:36
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Những bất cập của pháp luật cạnh tranh và hướng hoàn thiện

Hiện nay, khi Nhà nước vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường và thực hiện chính sách mở cửa, các chủ thể kinh doanh đã đẩy mạnh sự cạnh tranh để tăng cường tiềm lực kinh tế nhằm đứng vững trên thị trường với nhiều đối thủ.

Theo đó, có những hành vi cạnh tranh đã thúc đẩy được nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, tuy nhiên cũng có những hành vi cạnh tranh gây bất ổn định, ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế. Vì vậy, các văn bản pháp luật cạnh tranh ra đời nhằm điều chỉnh các hành vi cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh trong một khuôn khổ nhất định, vừa đảm bảo lợi ích của chính các chủ thể kinh doanh vừa bảo vệ lợi ích của các chủ thể khác trong xã hội. Bên cạnh việc phát huy và đem lại hiệu quả tích cực trong việc điều chỉnh hành vi cạnh tranh, các văn bản pháp luật cạnh tranh ra đời đã có vai trò to lớn trong đấu tranh phòng chống những hành vi vi phạm trong lĩnh vực cạnh tranh. Tuy nhiên, thực tế áp dụng các văn bản pháp luật này còn nhiều điểm chưa hợp lý, chưa mang lại hiệu quả cao. Trong phạm vi bài viết, tác giả phân tích một số bất cập và nêu ra hướng hoàn thiện quy định của pháp luật cạnh tranh nhằm nâng cao hơn nữa tính hiệu quả của pháp luật cạnh tranh.

1. Miễn trừ đối với hành vi tập trung kinh tế bị cấm

Pháp luật quy định: “Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang có nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản”[1] có thể được xem xét hưởng quyền miễn trừ mà không bị xử lý về hành vi tập trung kinh tế bị cấm. Quy định này nhằm mục đích giảm thiểu việc xoá sổ và gánh nặng mà các chủ thể kinh doanh có nguy cơ bị giải thể hoặc phá sản mang lại cho nền kinh tế, đồng thời giúp duy trì ổn định môi trường kinh doanh. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định: “Doanh nghiệp đang trong nguy cơ bị giải thể là doanh nghiệp thuộc trường hợp giải thể theo quy định của pháp luật hoặc theo điều lệ của doanh nghiệp...”[2]. Tính không hợp lý của pháp luật thể hiện ở chỗ, doanh nghiệp đang trong nguy cơ bị giải thể được quy định thuộc một trong hai trường hợp: Trường hợp thứ nhất - Giải thể theo quy định của pháp luật; Trường hợp thứ hai - Giải thể theo Điều lệ của doanh nghiệp. Trường hợp thứ nhất việc giải thể doanh nghiệp theo quy định của pháp luật được xem là trường hợp giải thể do yếu tố khách quan không phụ thuộc vào ý chí của chủ doanh nghiệp thì việc mong muốn tiếp tục kế thừa để tiếp tục phát huy những thành tựu kinh doanh khi tập trung kinh tế xứng đáng được hưởng quyền miễn trừ. Thế nhưng pháp luật quy định miễn trừ khi tập trung kinh tế đối với trường hợp thứ hai dễ bị các doanh nghiệp lạm dụng làm mất đi ý nghĩa thật sự của quyền miễn trừ đối với hành vi tập trung kinh tế bị cấm vì việc giải thể theo Điều lệ doanh nghiệp là việc chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp cả về mặt pháp lý lẫn thực tiễn hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của doanh nghiệp mà không chịu sự tác động của bất kỳ yếu tố khách quan nào. Từ đó, doanh nghiệp muốn được hưởng quyền miễn trừ trong trường hợp tập trung kinh tế bị cấm, có thể dựa vào những quy định vừa nêu trên để thực hiện hành vi tập trung kinh tế theo toan tính và lợi ích của mình, thậm chí làm nguy hại môi trường cạnh tranh, ảnh hưởng lợi ích của các chủ thể khác trong xã hội.

Vì vậy theo tôi, nên bỏ quy định doanh nghiệp bị giải thể theo Điều lệ được hưởng quyền miễn trừ đối với hành vi tập trung kinh tế bị cấm.

2. Tính hợp lý của quy định về các hình thức xử phạt bổ sung

“Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh bao gồm cả tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm”[3] được quy định là một trong những biện pháp xử phạt bổ sung để xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh là không hợp lý. Tính không hợp lý này thể hiện ở hai khía cạnh:

- Quy định tịch thu khoản lợi nhuận không chính đáng là hợp lý, tuy nhiên nó không phản ánh đúng tinh thần của biện pháp xử phạt bổ sung tại khoản 2 Điều 117 Luật cạnh tranh. Vì lợi nhuận thu được từ hành vi vi phạm không phải là tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm.

- Bản chất của việc xử phạt là hành vi của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng các hậu quả pháp lý bất lợi cho chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật, cụ thể trong bài viết này là vi phạm pháp luật về cạnh tranh, chủ thể vi phạm sẽ phải gánh chịu những tổn thất nhất định do hành vi vi phạm mà mình thực hiện. Theo đó, pháp luật quy định các hình thức xử phạt bổ sung như: Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề; tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh phản ánh đúng bản chất của xử phạt bổ sung là áp dụng những hậu quả bất lợi, gây ảnh hưởng về lợi ích nhất định cho chủ thể vi phạm. Tuy nhiên, việc tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm không phản ánh đúng bản chất của hình thức xử phạt bổ sung vì bản thân khoản lợi nhuận thu được từ hành vi vi phạm không phải là khoản lợi nhuận đáng lẽ chủ thể vi phạm có quyền được hưởng vì nó phát sinh trong quá trình thực hiện hành vi vi phạm mà có. Vì vậy, việc tịch thu khoản lợi nhuận này không phải là hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể thực hiện hành vi vi phạm phải gánh chịu.

Do vậy, thiết nghĩ nên tách việc tịch thu khoản lợi nhuận từ hành vi vi phạm thành một biện pháp kèm theo khi áp dụng các hình thức xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh trong trường hợp có lợi nhuận phát sinh từ hành vi vi phạm.

3. Xác định mức tiền phạt đối với hành vi vi phạm quy định về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh

Xác định mức tiền phạt đối với hành vi vi phạm quy định về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh tại Điều 4 Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh là không đảm bảo tính thống nhất giữa những quy định của pháp luật.

Pháp luật về cạnh tranh quy định tiền phạt hành vi vi phạm quy định về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh được xác định theo tỷ lệ phần trăm doanh thu bán ra hoặc doanh số mua vào hoặc theo tổng doanh thu của doanh nghiệp vi phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm đồng thời căn cứ vào một số yếu tố như: Mức độ gây hạn chế cạnh tranh; mức độ thiệt hại; thời gian, phạm vi thực hiện hành vi vi phạm; lợi nhuận thu được...

Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định là trong mọi trường hợp, mức tiền phạt một hành vi vi phạm không được vượt quá mức tiền phạt tối đa đối với hành vi vi phạm đó[4]. Điều này vô hình chung làm cho quy định tại khoản 5 Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 trong một số trường hợp không thể áp dụng: “Đối với mỗi tính tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 85 của Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh, mức tiền phạt được xác định theo Khoản 1 Điều này được điều chỉnh hoặc giảm tương ứng 15%”. Như vậy, khi xác định mức tiền phạt áp dụng cho từng hành vi vi phạm phải tính đến tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng của từng hành vi. Nếu chủ thể thực hiện hành vi vi phạm tự nguyện khai báo; đã tự nguyện cung cấp chứng cứ, thông tin hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại...[5] thì mức tiền phạt sẽ được điều chỉnh giảm 15%. Ngược lại, nếu chủ thể thực hiện hành vi vi phạm tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm mặc dù có yêu cầu chấm dứt hành vi đó; sau khi thực hiện hành vi vi phạm đã trốn tránh, che dấu vi phạm...[6] thì mức tiền phạt sẽ được điều chỉnh tăng 15%. Như vậy, sẽ có trường hợp xảy ra là khi chưa áp dụng tình tiết tăng nặng mức tiền phạt đã đạt ngưỡng mức tiền phạt tối đa đối với hành vi vi phạm, từ đó không thể áp dụng tình tiết tăng nặng cho hành vi vi phạm.

Vì vậy, quy định tại khoản 6 Điều 4 Nghị định số 71/2014/NĐ-CP cần sửa đổi như sau: “Trong mọi trường hợp, mức tiền phạt đối với mỗi hành vi vi phạm quy định về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh không được vượt quá mức tiền phạt tối đa đối với hành vi đó được quy định tại Mục 1, Mục 2 và Mục 3 Chương II của Nghị định này, trừ những trường hợp được quy định tại Khoản 5 Điều này”.

4. Các quy định về hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh khác

Xét đến quy định về hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh khác. Hành vi vi phạm quy định về cung cấp thông tin, tài liệu; hành vi vi phạm các quy định khác liên quan đến quá trình điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh; hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, tập trung kinh tế trước khi có quyết định cho hưởng miễn trừ của cơ quan có thẩm quyền là những hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh khác được quy định lần lượt tại Điều 37, Điều 38 và Điều 39 Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh theo tôi là chưa đủ vì những lẽ sau:

Một vụ việc cạnh tranh được điều tra và đưa ra xử lý dựa vào một trong hai trường hợp: Trường hợp thứ nhất - Hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh đã được cơ quan quản lý cạnh tranh thụ lý; Trường hợp thứ hai - Cơ quan quản lý cạnh tranh phát hiện có dấu hiệu vi phạm quy định của Luật cạnh tranh[7]. Nếu vụ việc cạnh tranh được giải quyết theo quyết định của cơ quan quản lý cạnh tranh thì việc giao nộp chứng cứ là trách nhiệm của các bên liên quan.

Hơn nữa, khoản 1 Điều 77 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh quy định việc giao nộp chứng cứ cho cơ quan quản lý cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh là nghĩa vụ của các bên liên quan trong quá trình điều tra, giải quyết vụ việc cạnh tranh. Tuy được quy định là nghĩa vụ cung cấp chứng cứ nhưng pháp luật về xử lý vụ việc cạnh tranh lại không quy định về hình thức xử lý nếu như các bên liên quan không thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình.

Vì vậy, chúng tôi kiến nghị nên đưa việc không giao nộp chứng cứ theo Khoản 1 Điều 77 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP vào phần quy định những hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh khác để có những chế tài xử lý phù hợp, đảm bảo việc giải quyết vụ việc cạnh tranh có căn cứ pháp lý và hiệu quả hơn.

5. Pháp luật về cạnh tranh cần quy định rõ “Bên được thi hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh”

Điều này vô cùng quan trọng vì việc cưỡng chế thi hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh cần dựa vào hành vi của bên được thi hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh: “Hết thời hạn quy định tại Khoản 1 Điều 47 của Nghị định này, tổ chức, cá nhân bị xử lý vi phạm không tự nguyện thi hành, không khởi kiện ra Toà án theo quy định tại Mục 7 Chương 5 của Luật Cạnh tranh, bên được thi hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều này tổ chức thi hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh thuộc phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đó”[8].

Pháp luật về cạnh tranh hiện hành không quy định bên được thi hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh bao gồm những chủ thể nào. Theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, bên được thi hành được ghi nhận là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi ích trong quyết định được thi hành[9]. Có thể dựa theo quy định của Luật Thi hành án dân sự mà hiểu rằng bên được thi hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi ích trong quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh. Thế nhưng trong một số trường hợp, việc xác định cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi ích trong quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh là không dễ dàng. Như phân tích tại phần thứ tư, một vụ việc cạnh tranh được điều tra và đưa ra xử lý dựa vào một trong hai trường hợp: (1) Hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh đã được cơ quan quản lý cạnh tranh thụ lý; (2) Cơ quan quản lý cạnh tranh phát hiện có dấu hiệu vi phạm quy định của Luật Cạnh tranh. Vụ việc cạnh tranh được điều tra và đưa ra xử lý theo trường hợp thứ (1) thì bên được thi hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có thể được xác định là bên khiếu nại (tổ chức, cá nhân cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại do hành vi vi phạm[10]), người có quyền và nghĩa vụ liên quan hoặc bên bị điều tra (trong trường hợp người bị điều tra không vi phạm pháp luật cạnh tranh nhưng bị thiệt hại trong quá trình điều tra xử lý đối với chủ thể này thì họ trở thành người được hưởng quyền, lợi ích trong quyết định được thi hành) vì các chủ thể này có thể được hưởng quyền, lợi ích trong quyết định được thi hành. Vụ việc cạnh tranh được điều tra và đưa ra xử lý theo trường hợp thứ (2) thì vấn đề xác định bên được thi hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh là rất khó vì không có người khiếu nại, có thể không có người có quyền và nghĩa vụ liên quan, bên bị điều tra không thuộc như phân tích ở trường hợp (1) bởi việc xử lý vụ việc cạnh tranh theo trường hợp thứ (2) căn cứ vào dấu hiệu hành vi[11] tức là chủ thể bị điều tra có hành vi vi phạm hay không mà không xét tới hậu quả là có tổ chức, cá nhân nào có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại hay không để từ đó xác định bên được thi hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh là cá nhân, cơ quan, tổ chức sẽ được hưởng quyền, lợi ích trong quyết định được thi hành. Mặt khác, cơ quan quản lý cạnh tranh không thể là bên được thi hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh vì cơ quan này tham gia với tư cách người tiến hành tố tụng, nếu kiêm luôn cả bên được yêu cầu thi hành án thì xem ra là “vừa đá bóng vừa thổi còi”.

Vì vậy theo tôi, pháp luật về cạnh tranh cần quy định rõ bên được thi hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh là một hoặc một số các chủ thể sau: Người khiếu nại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, người bị điều tra (trong trường hợp người bị điều tra không vi phạm pháp luật cạnh tranh nhưng bị thiệt hại trong quá trình điều tra xử lý đối với chủ thể này thì họ trở thành người được hưởng quyền, lợi ích trong quyết định được thi hành).

Trên đây tôi đã có những phân tích về một số trong nhiều vấn đề còn tồn tại, bất cập ở những quy định của các văn bản pháp luật cạnh tranh cũng như kiến nghị giải pháp để hoàn thiện những quy định đó nhằm góp phần đảm bảo tính hiệu quả trong việc áp dụng pháp luật cạnh tranh, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, thông thoáng.

Phạm Thị Hạnh

Trường Đại học Tài chính kế toán Quảng Ngãi

Tài liệu tham khảo:

1. Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam 1992, được sửa đổi theo Nghị quyết 38/2012/QH13 ngày 23 tháng 11 năm 2012 của Quốc hội khoá XIII.

2. Luật Cạnh tranh năm 2004.

3. Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

4. Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của luật cạnh tranh.

5. Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.

6. http:// www.qlct.gov.vn.

7. http://www.vca.gov.vn.


Xem khoản 1 Điều 19 Luật Cạnh tranh năm 2004.

Xem khoản 1 Điều 36 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh.

Xem Điểm b khoản 2 Điều 3 Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.

Xem khoản 6 Điều 4 Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 quy định chi tiết Luật cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.

Xem khoản 1 Điều 85 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh.

Xem Khoản 2 Điều 85 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh.

Xem Điều 86 Luật Cạnh tranh năm 2004.

Xem khoản 1 Điều 49 Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.

Xem Khoản 2 Điều 3 Luật thi hành án dân sự 2008.

Xem khoản 1 Điều 58 Luật cạnh tranh 2004

Khoản 2 Điều 86 Luật cạnh tranh 2004.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm