Những năm gần đây, tình hình tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người diễn biến ngày càng phức tạp và nghiêm trọng. Tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe đã và đang xảy ra trên hầu hết các địa phương, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, nhiều vụ án gây đau đớn tột cùng cho người thân, gây hoang mang, lo lắng trong nhân dân. Bạo lực trong gia đình, trong nhà trường, xã hội vẫn không giảm và ngày càng phức tạp, với rất nhiều loại hành vi vô nhân tính, khó lường, khó kiểm soát. Chính vì vậy, ngoài việc phát hiện và trừng trị tội phạm kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì Nhà nước và các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội cần đề ra hệ thống giải pháp hữu hiệu và tổ chức thực hiện tốt để phòng ngừa và ngăn ngừa hành vi xâm hại con người, loại trừ các nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm xâm phạm sức khỏe, tính mạng của con người. Đó là vấn đề cấp thiết và quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
1. Một số nguyên tắc phòng ngừa tội phạm
Một là, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN): Phòng ngừa tội phạm nói chung, phòng ngừa các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người nói riêng là hoạt động cần thiết, quan trọng nhằm ổn định và duy trì trật tự xã hội. Cho nên, khi thực hiện các biện pháp “phòng ngừa”, nguyên tắc pháp chế XHCN yêu cầu các chủ thể phải tuyệt đối tuân thủ và tôn trọng Hiến pháp và pháp luật; không được tùy tiện trong áp dụng pháp luật làm mất đi tính nghiêm minh của pháp luật, có thể làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của con người hoặc phá vỡ tính thống nhất của pháp luật.
Hai là, nguyên tắc nhân đạo: Nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc quan trọng của pháp luật hình sự; phòng ngừa tội phạm chính là nhằm đảm bảo tôn trọng các giá trị nhân văn cũng như giá trị “chân, thiện, mỹ” trong đời sống xã hội; đồng thời bảo vệ các quyền về nhân thân của con người trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Khi thực hiện các biện pháp phòng ngừa tội phạm, nguyên tắc nhân đạo thể hiện tư tưởng vì con người, cho con người cũng như thể hiện bản chất Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các biện pháp phòng ngừa tội phạm nhằm hạn chế thấp nhất tội phạm xảy ra, ngăn chặn có hiệu quả các hành vi vi phạm tiếp tục diễn ra trong thực tế. Tuy nhiên, các biện pháp phòng ngừa không chỉ bảo đảm phù hợp với pháp luật mà còn phải phù hợp với phong tục, tập quán, văn hóa vùng, miền và các giá trị đạo đức, không được làm cho con người bị tổn thương về thể chất, tinh thần cũng như phẩm giá của họ.
Ba là, nguyên tắc phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể và các biện pháp phòng ngừa tội phạm: Phòng ngừa tội phạm là hoạt động cần được tiến hành đồng bộ. Để đạt được hiệu quả phòng ngừa, trước hết, cần bảo đảm sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân - những chủ thể tham gia “phòng ngừa”. Tùy theo từng loại chủ thể mà phạm vi của hoạt động phòng ngừa có thể khác nhau nhưng vẫn phải đảm bảo hoạt động phòng ngừa tội phạm nằm trong chỉnh thể chung thống nhất của phòng ngừa tội phạm. Bên cạnh các chủ thể là các cơ quan, tổ chức, cần khuyến khích và động viên người dân nâng cao ý thức cảnh giác trong phòng ngừa và phát hiện tội phạm, xây dựng và thực hiện Quy chế phối hợp phòng ngừa tội phạm giữa gia đình, nhà trường và xã hội; quản lý chặt chẽ những người chấp hành xong án phạt tù, đặc xá, tạo điều kiện để họ tái hòa nhập cộng đồng; củng cố các tổ dân phố, lực lượng bảo vệ chuyên trách, bán chuyên trách, các tổ chức đoàn thể quần chúng ở cơ sở phường, xã tham gia bảo vệ an ninh, trật tự; quản lý, giáo dục, cảm hóa những người phạm tội tại cộng đồng dân cư. Không để xảy ra tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Mặt khác, cần phối kết hợp đồng bộ các biện pháp phòng ngừa, tạo hiệu quả và sức mạnh tổng hợp trong phòng ngừa từ sự kết hợp đồng bộ đó.
Bốn là, nguyên tắc khoa học: Việc xây dựng và áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người nói riêng phải dựa vào các căn cứ khoa học. Việc đưa ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm phải dựa trên kết quả nghiên cứu và tổng kết thực tiễn về tình hình tội phạm, xem xét nguyên nhân của tình hình các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người, đồng thời sử dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật trong việc tổng kết thực tiễn, áp dụng giá trị của khoa học công nghệ thông tin vào việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa tội phạm. Đây là vấn đề có ý nghĩa không nhỏ trong triển khai các hoạt động phòng ngừa tội phạm trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0.
2. Một số giải pháp phòng ngừa
Thứ nhất, phát triển kinh tế, tạo ra nhiều việc làm
Phòng ngừa tội phạm trước hết là phòng ngừa xã hội. Quá trình phòng ngừa xã hội chính là tạo ra môi trường sống lành mạnh, có nền kinh tế phát triển, bởi kinh tế là vấn đề có ý nghĩa quyết định sự phát triển xã hội. Phát triển kinh tế có nhiệm vụ cơ bản là phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, nhiều của cải, vật chất cho xã hội nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, đặc biệt là thực hiện chính sách an sinh xã hội ngày càng rộng rãi. Khi có nhiều việc làm, chúng ta sẽ hạn chế thấp nhất được tình trạng thất nghiệp, giúp người dân ổn định cuộc sống, có thu nhập đều đặn để bảo đảm đời sống gia đình thực sự bình yên. Hiệu quả của những hoạt động này chắc chắn sẽ ảnh hưởng tích cực đến việc loại trừ nguyên nhân và điều kiện phạm tội, trong đó có tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người. Bởi chúng ta hiểu rõ rằng, một trong những nguyên nhân dẫn đến tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe hiện nay là xuất phát từ mâu thuẫn, xung đột về lợi ích kinh tế. Không có nghề nghiệp, việc làm, thiếu thốn, đói nghèo là những hiện tượng xã hội có mối quan hệ biện chứng với việc phát sinh tội phạm nói chung, tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người nói riêng. Trong nhiều trường hợp, chỉ vì mục đích giành giật lợi ích vật chất nhỏ bé mà sẵn sàng tước đoạt sinh mệnh con người.
Thứ hai, xây dựng con người có đạo đức, có văn hóa và nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật
Phát triển văn hóa - giáo dục, nhằm xây dựng con người có văn hóa, có đạo đức, nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật là một biện pháp phòng ngừa xã hội có tính chất chiến lược, căn cơ. Việc giáo dục đạo đức, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng quy tắc cuộc sống và sống có văn hóa cần được quan tâm ngay từ khi con người mới chập chững, bi bô trong mỗi gia đình, nhà trường và trong xã hội.
Trong gia đình, trẻ em cần được nuôi dưỡng, chăm sóc, yêu thương, kết hợp với giáo dục, giáo dưỡng một cách thường xuyên, tỷ mỷ và khoa học; tạo cho các em được sống trong chính tổ ấm hạnh phúc của mình, bên cạnh những người thân yêu, ruột thịt, với sự yêu thương, chăm sóc, quan tâm giữa các thành viên trong gia đình. Trong đó, cha mẹ phải thực sự là những tấm gương về đạo đức, văn hóa, ý thức tôn trọng pháp luật. Đặc biệt, cần xây dựng những gia đình nói không với bạo lực. Đó là phương pháp tốt nhất để tạo ra những trẻ em có nền tảng văn hóa ban đầu thiện mỹ trước khi các em được hòa nhập vào môi trường học tập, làm việc trong nhà trường và xã hội.
Trong nhà trường, từ bậc mầm non đến các trường phổ thông, trung học, cao đẳng, đại học, cần có phương pháp giáo dục kết hợp giáo dục tri thức với dưỡng dục và đức dục; thông qua sự phối kết hợp giữa gia đình với nhà trường, thông qua sự gương mẫu của các thầy, cô giáo. Điều này vô cùng cần thiết bởi thực trạng tội phạm hiện nay, tỷ lệ người chưa thành niên phạm tội ngày càng cao; trẻ em lang thang, cơ nhỡ, thiếu sự quan tâm, sâu sát, giáo dục của bố, mẹ; trong khi, có rất nhiều cám dỗ trong xã hội lôi kéo, đưa đẩy các em vào con đường phạm tội. Ngược lại, khi trẻ em được giáo dục, giáo dưỡng một cách căn bản, thường xuyên và khoa học, sẽ tạo ra những con người trưởng thành có văn hóa, có đạo đức, có ý thức tôn trọng pháp luật. Đó sẽ là những sản phẩm có giá trị, sẽ là những người trưởng thành có ích cho xã hội. Đây là biện pháp phòng ngừa mang tính nền tảng, giúp cho con người đủ bản lĩnh kiềm chế lòng tham trước những cám dỗ vật chất; vững vàng, thông thái trong việc lựa chọn giải pháp hài hòa, hữu hiệu, đúng pháp luật để giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh.
Thứ ba, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
Thực trạng những năm qua cho thấy, khá nhiều tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe có nguyên nhân từ sự kém hiểu biết pháp luật, về tội phạm cũng như về trách nhiệm pháp lý trước Nhà nước và trước người bị hại. Vì vậy, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến các tầng lớp nhân dân để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho mỗi người sẽ là yếu tố quan trọng, cần thiết để trang bị kỹ năng sống, kỹ năng hành xử trong cuộc sống. Trong đó, cần đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để pháp luật đến được với người dân một cách dễ hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng. Đặc biệt, cần phát huy giá trị tuyên truyền từ các loại hình văn hóa, nghệ thuật... Đây là biện pháp bổ trợ rất quan trọng, góp phần loại trừ nguyên nhân và điều kiện phạm tội từ sự thiếu hiểu biết pháp luật của người phạm tội.
Thứ tư, vận động và tổ chức cho quần chúng tham gia các hoạt động phòng ngừa tội phạm
Đối với các tội phạm xâm phạm sức khỏe, tính mạng, nhiều khi nguyên nhân phạm tội chỉ bắt đầu từ những mâu thuẫn rất nhỏ trong dân cư. Nhưng do không được giải tỏa kịp thời mà mâu thuẫn bùng phát. Hoặc có những tội phạm phát sinh từ sự thiếu cảnh giác trong giữ gìn an ninh trật tự của người dân, từ phong tục, tập quán lạc hậu, thiếu lành mạnh của con người. Vì vậy, chính quyền địa phương cần vận động, tổ chức và phát huy đông đảo người dân tham gia một cách tích cực vào công cuộc phòng ngừa tội phạm. Bao gồm các hoạt động: Vận động quần chúng nhân dân tự giác xây dựng nếp sống lành mạnh; lập các tổ hòa giải để giải quyết mâu thuẫn từ trong “trứng nước”, giải quyết triệt để các xung đột; vận động quần chúng đấu tranh bài trừ tệ nạn xã hội, bài trừ những văn hóa phẩm có nội dung kích động bạo lực; tổ chức vận động quần chúng thu thập tin tức, phát hiện, đấu tranh, tố giác kịp thời đối với những hành vi bạo lực trong gia đình, nhà trường... Đó là những phương cách hữu hiệu kịp thời ngăn chặn nguyên nhân và điều kiện phạm tội, tạo điều kiện để mọi người, mọi gia đình có cuộc sống lành mạnh, yên vui, hạnh phúc.
Thứ năm, phát động phong trào toàn dân thu hồi và giao nộp vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, phương tiện mà người phạm tội có thể sử dụng để gây án
Hiện nay, tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe diễn ra khá phức tạp với việc sử dụng vũ khí, công cụ, phương tiện nguy hiểm; làm gia tăng các trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho sức khỏe, tính mạng con người. Cho nên, chính quyền địa phương cần khơi dậy ý thức trách nhiệm trong công dân, vận động quần chúng kiểm tra, giao nộp, thu hồi và xử lý vũ khí, vật liệu nổ. Việc phát hiện, thu hồi và giao nộp vũ khí, vật liệu nổ cần được tiến hành thường xuyên. Tuy nhiên, để quần chúng tự giác chấp hành và hưởng ứng tích cực thì Đảng, Nhà nước phải tuyên truyền, khơi dậy ý thức trách nhiệm công dân, trách nhiệm cộng đồng, không để cho vật liệu nổ, vũ khí, công cụ hỗ trợ rơi vào tay người phạm tội và ngăn chặn kịp thời các trường hợp sử dụng vũ khí, công cụ, phương tiện nguy hiểm để gây án. Tăng cường phối hợp giữa các lực lượng: Công an, quân đội địa phương, cựu chiến binh và các tổ chức quần chúng ở cơ sở, đây là lực lượng nòng cốt của phong trào toàn dân thu hồi và giao nộp vũ khí, vật liệu nổ. Ngoài ra, cần kiểm tra, đôn đốc kịp thời đến từng cơ sở phường, xã, cụm dân cư, kết hợp chặt chẽ việc thu hồi, giao nộp với việc bảo quản kịp thời, an toàn.
Thứ sáu, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan chức năng
Với nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn và bình yên cho nhân dân, các cơ quan bảo vệ pháp luật, bao gồm các cơ quan Công an nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân cần phát huy cao độ trách nhiệm và ý thức bảo vệ pháp luật trước Nhà nước, trước pháp luật và trước nhân dân.
Đối với lực lượng Công an nhân dân: Đây là lực lượng thường xuyên và trực tiếp tiếp xúc với nhân dân, trực tiếp phục vụ các nhu cầu chính trị, pháp lý của công dân. Vì vậy, căn cứ vào nhiệm vụ của mình, trên cơ sở quy định của pháp luật, lực lượng công an nhân dân cần tham gia tích cực và chủ động thực hiện chức năng của mình để phòng ngừa và hạn chế thấp nhất việc tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người nói riêng. Trong đó, đáng chú ý là các hoạt động sau:
- Kiểm soát hoạt động cư trú của nhân dân: Trong thực tiễn hoạt động phòng ngừa tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người, mục đích của của hoạt động phòng ngừa hướng đến việc nhanh chóng phát hiện ra những nhân tố “bất thường” trong khu dân cư. Đó có thể là đối tượng trong danh sách “đen”, có thể là người từ nơi khác “dạt” đến tìm cơ hội phạm tội hoặc lẩn trốn sau khi phạm tội. Cảnh sát khu vực sẽ là người gần dân, sát dân nhất để nhanh chóng phát hiện, thu thập thông tin bất thường. Biện pháp kiểm soát các hoạt động cư trú của nhân dân sẽ tạo điều kiện chủ động phát hiện, ngăn chặn nguy cơ phạm tội và ứng phó với các tình huống có thể xảy ra, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa tội phạm. Trong quá trình kiểm soát, cần chú trọng các tuyến, địa bàn khu vực giáp ranh giữa các xã, phường, phân loại địa bàn, tuyến phức tạp về an ninh trật tự để bám nắm và quản lý. Có như vậy lực lượng công an mới quán xuyến được địa bàn, chủ động xây dựng kế hoạch, phương án tổ chức lực lượng, phương tiện tuần tra kiểm soát có trọng tâm, trọng điểm, phát huy hiệu quả cao nhất trong công tác đảm bảo an ninh, trật tự và an toàn xã hội địa bàn phụ trách.
- Phát hiện điều tra tội phạm kịp thời: Bên cạnh việc kiểm soát việc cư trú của nhân dân, hoạt động tiến hành tố tụng, phát hiện, khởi tố, điều tra tội phạm là một hoạt động chức năng có ý nghĩa rất quan trọng trong phòng ngừa tội phạm. Từ việc thu thập thông tin, nhận tin báo, tố giác, tố cáo, lực lượng Công an (cảnh sát điều tra tội phạm) nhanh chóng vào cuộc, trực tiếp phân loại, xác định dấu hiệu của tội phạm để kịp thời khởi tố, điều tra tội phạm, lập hồ sơ, buộc người có hành vi phạm tội phải chịu những biện pháp cưỡng bức như khởi tố, bắt tạm giam, điều tra, truy tố, buộc kẻ phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Hoạt động này có ý nghĩa cảnh báo, giáo dục và răn đe rất hiệu quả đối với cộng đồng, đặc biệt là đối với những người đang có ý định phạm tội. Tuy nhiên, với nguyên tắc pháp chế XHCN, cán bộ Công an có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải hết sức tuân thủ pháp luật, tôn trọng quyền con người, quyền công dân, mọi hành vi và quyết định tố tụng phải trên cơ sở pháp luật, tuân thủ pháp luật, tránh khởi tố, bắt giam người oan, sai hoặc tiến hành tố tụng trái pháp luật.
Đối với Viện Kiểm sát nhân dân các cấp: Cùng với cơ quan cảnh sát điều tra, cơ quan Viện Kiểm sát là lực lượng có chức năng phát hiện, điều tra tội phạm, giám sát toàn bộ hoạt động điều tra để chắc chắn một điều rằng, việc điều tra tội phạm được thực hiện nghiêm ngặt, đúng người, đúng trình tự và thủ tục mà pháp luật quy định. Từ đó, xác định căn cứ để đưa ra truy tố người phạm tội trước Tòa án. Không có truy tố người phạm tội thì không có xét xử tội phạm, trong khi mà, một người không bị coi là có tội nếu chưa bị Tòa án có thẩm quyền kết tội bằng một “bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Cho nên, hoạt động truy tố của Viện kiểm sát là hoạt động mang tính bản lề của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc đưa một người có hành vi phạm tội ra truy tố trước Tòa án cũng chính là hoạt động có tính cảnh báo, cảnh tỉnh cho cộng đồng, nhất là đối với những ai đang có ý định vi phạm pháp luật hoặc chuẩn bị phạm tội, trong đó có tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe người khác. Cho nên, hoạt động truy tố ngoài ý nghĩa truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội thì đó cũng chính là biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa tội phạm trong cộng động.
Đối với Tòa án nhân dân các cấp: Là cơ quan được Hiến pháp năm 2013 giao thực hiện quyền tư pháp, mà đặc trưng là quyền tiến hành xét xử các vụ án hình sự, trong đó có xét xử tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người. Những bản án tuyên đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội nhưng cũng không bỏ lọt tội phạm, với mức hình phạt tuyên đủ sức trừng trị người phạm tội; đồng thời là tiếng chuông thức tỉnh sự u ê trong con người phạm tội cũng như sự cảnh báo, răn đe trong cộng đồng. Cho nên, xét xử nghiêm minh người phạm tội sẽ thực sự là biện pháp phòng ngừa hiệu quả đối với toàn xã hội, để nguyên tắc thượng tôn pháp luật được lên ngôi.
Thứ bảy, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự
Một trong các nguyên tắc cơ bản trong phòng ngừa tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người là nguyên tắc pháp chế XHCN. Để nguyên tắc này được thực thi, trước hết, Nhà nước phải xây dựng và thường xuyên hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng. Đó phải là hệ thống pháp luật thống nhất, đầy đủ, điều chỉnh hết thảy các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, chú trọng: Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Trẻ em, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Giáo dục, Bộ luật Dân sự. Bảo đảm cho các quy định của pháp luật thống nhất, phù hợp thực tiễn, có tính khả thi, có hiệu lực và hiệu quả để bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe con người trước sự xâm hại của hành vi vi phạm và tội phạm.
Điều 19 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”; tại khoản 1 Điều 20 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.
Thể chế hóa các quy định có tính hiến định, Bộ luật Hình sự năm 2015 giành một chương riêng quy định về tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, trong đó quy định các hành vi phạm tội cụ thể với chế tài nghiêm khắc. Ví dụ như: “Tội giết người” có hình phạt cao nhất đến tử hình; “Tội bức tử” có hình phạt cao nhất đến 12 năm; “Tội cố ý gây thương tích...” có hình phạt cao nhất đến tù chung thân... Việc quy định cụ thể những hành vi bị coi là tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người, quy định rõ chế tài đối với người thực hiện hành vi phạm tội ấy, trước hết nhằm cảnh báo, răn đe những hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe người khác; đồng thời, tạo căn cứ pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người có hành vi phạm tội, buộc họ phải chịu hình phạt nghiêm minh và bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị xâm hại, bảo vệ các quyền được sống, quyền được bảo hộ thân thể, sức khỏe của con người.
So với Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có nhiều sửa đổi quan trọng trong chương XIV. Nội dung sửa đổi đã thể chế hóa được những quan điểm, chủ trương mới của Đảng trong việc tăng cường bảo vệ các quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung các hành vi nguy hiểm cho xã hội cần bị coi là tội phạm như: Các hành vi chiếm đoạt, mua bán trái phép mô tạng, các bộ phận cơ thể người; hành vi vứt con mới đẻ; thiết kế lại các khung hình phạt của tội giết người và bổ sung thêm một số tình tiết tăng nặng đối với tội này...
Với việc thường xuyên sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật, Nhà nước tạo ra hành lang pháp lý hữu hiệu để các tổ chức, cá nhân tham gia vào việc phòng ngừa tội phạm áp dụng pháp luật. Đó cũng chính là cơ sở để pháp luật phát huy được giá trị đích thực trong cuộc sống hôm nay.
Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu