Buổi đầu tới nhận công tác, ông Viện trưởng, kiêm Tổng biên tập Tạp chí (lúc đó là Tập san Pháp chế xã hội chủ nghĩa) phân công tôi làm việc ở bộ phận Tạp chí. Và tôi công tác liên tục ở Tạp chí cho tới khi nghỉ chế độ (năm 2012).
Một hôm, sau khi trao đổi xong công việc, ông Tổng biên tập - Nguyễn Văn Thảo hỏi tôi:
- Cậu có đọc Báo Nhân dân không?
Tôi đáp:
- Dạ, có ạ (lúc bấy giờ sách báo rất ít, chủ yếu là báo viết, chưa có báo mạng, chưa có máy tính thông dụng như bây giờ. Tài liệu tham khảo hàng ngày chủ yếu là Báo Nhân dân, thỉnh thoảng mới được đọc “Tin tham khảo” của Thông tấn xã Việt Nam).
Ông lại hỏi tiếp:
- Đọc báo, cậu đọc trang, bài nào?
Tôi đáp:
- Dạ, cháu thường đọc tin, bài ở trang 1 và trang 4 (thông thường các tin, bài ở trang 1 và trang 4 Báo Nhân dân hay đưa các tin về hiếu, hỉ, sự kiện thế giới và đăng nhiều ảnh đẹp; tin bài lại ngắn, dễ đọc).
Nghe tôi trả lời, trầm ngâm một lúc, ông nhìn tôi và nói tiếp:
- Cậu còn trẻ, đường đi phía trước còn dài. Muốn trở thành nhà báo, nhà nghiên cứu hay bất kỳ nhà gì đi nữa với đúng nghĩa của nó thì cậu phải đọc mục “Xã luận”, phải đọc Tạp chí Cộng sản và phải biết tiếng Anh. Còn nếu muốn hiểu rõ sự đời, sống cuộc đời thanh thản, vui vẻ, nhẹ nhàng, cậu nên đọc mấy tác phẩm văn học: Đông Chu liệt quốc, Tam Quốc diễn nghĩa và Tây Du ký để thấy sự tàn khốc trong tranh giành quyền lực của nhân loại, kỹ năng và thủ thuật bang giao đối ngoại cũng như cách ứng xử với cấp trên và đồng nghiệp.
Nghe ông nói, tôi buồn cười, nhưng cố nén, không dám cười to. Trong đầu tôi xuất hiện ý nghĩ: “Có lẽ ông này lẩm cẩm, chắc do tuổi tác. Ai sức đâu mà đọc Xã luận - Nội dung thì khô khan, câu văn thì lên gân, lên cót. Còn học tiếng Anh ư, cần gì. Tiếng Nga - Tiếng nói của Lênin mình đã đọc thông, viết thạo. Thế là quá đủ”.
Tôi đáp chiếu lệ:
- Vâng ạ.
Theo thời gian, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ông, chúng tôi bắt tay vào xây dựng tờ Tạp chí (lúc bấy giờ ra 02 tháng/số), in bằng giấy đen, màu chủ đạo là đen trắng, chưa có ảnh màu đẹp như bây giờ.
Cho dù gặp muôn vàn khó khăn, anh em chúng tôi phần lớn chỉ được đào tạo chuyên ngành luật (ở trong và ngoài nước), không có ai được đào tạo về chuyên ngành báo chí, nhưng phải thừa nhận, thời kỳ ông Nguyễn Văn Thảo làm Tổng biên tập, Tạp chí đã có những đóng góp xuất sắc cho Ngành Tư pháp cũng như cho nền khoa học pháp lý non trẻ nước nhà. Tạp chí Pháp chế xã hội chủ nghĩa đã có vị trí xứng đáng trong làng báo chí Cách mạng Việt Nam. Anh em phóng viên, biên tập viên chúng tôi rất tự tin, tự hào giới thiệu mình là người của Tạp chí với bất kỳ cơ quan, tổ chức nào từ trung ương tới địa phương và với bất kỳ cơ quan báo bạn nào, kể cả Tạp chí Cộng sản, Báo Nhân dân, Báo Quân đội nhân dân, Đài Truyền hình hay Đài Tiếng nói Việt Nam. Vì họ đều biết chúng tôi là “quân” của Tổng biên tập Nguyễn Văn Thảo.
Sự tự tin, tự hào của anh em chúng tôi trong quá trình tác nghiệp báo chí là có cơ sở, không ai có thể phủ nhận. Bởi vì, ngay vào những năm đầu của thập kỷ 80 thế kỷ trước, khi cả nước vẫn chìm sâu trong cơ chế quản lý kinh tế tập trung bao cấp, theo sự chỉ đạo của Tổng biên tập, tôi đã đến gặp ông Chế Viết Tấn - Nguyên Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương đề nghị ông viết bài cho Tạp chí. Bài của ông có tựa đề: “Pháp luật và việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế”, được Tổng biên tập duyệt, đăng trong số 1/1988. Sau khi phát hành, bài báo đã gây tiếng vang lớn đối với các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý kinh tế - nhất là ở các tỉnh phía Nam và các nhà nghiên cứu luật học trong cả nước. Bài báo đề cập nhiều thuật ngữ, nhiều tư tưởng rất mới (thú thực khi đọc, bản thân tôi cũng không hiểu vì chưa được học, chưa thấy ai nói như các thuật ngữ: “Hình thái thương mại thực thể”, “Hình thái thương mại vô hình”...). Bài báo của Tạp chí đã góp phần không nhỏ về mặt khoa học vào công cuộc đổi mới của Đảng, chuyển nền kinh tế nước nhà từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tạp chí còn đăng bài của nhiều học giả hàng đầu trên các lĩnh vực khác nhau của cả nước như bài: “Mấy suy nghĩ về chiến lược xây dựng pháp luật Việt Nam” (số 1/1988) của nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp Phan Hiền; “Một số biện pháp nhằm đảm bảo nguyên tắc: “Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập, chỉ tuân theo pháp luật” (số 4/1988) của nguyên Thứ trưởng Bộ Tư pháp Trần Đông; “Bàn về pháp trị và đức trị” (số 1/1988) của GS. Vũ Khiêu; “Về công bằng xã hội” (số 1/1988) của GS. Trần Quốc Vượng; “Tranh luận tại phiên tòa” (số 3/1988) của GS. Nguyễn Ngọc Minh; “Dân chủ và pháp chế” (số 5 + 6/1988) của GS. Hoàng Văn Hảo; “Pháp luật và chính trị” (số 2/1988) của Luật gia Phạm Đình Tân; “Một số ý kiến về giám định pháp y” (số 4/1988) của GS. Nguyễn Như Bằng; “Pháp y học trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm” (số 5 + 6/1988) của GS. TSKH. Châu Diệu Ái; “Tư duy pháp lý và vấn đề đổi mới” (số 3/1988) của PGS. TS. Hà Hùng Cường ...
Tư tưởng, nội dung, cách thể hiện trong các bài viết của các học giả trên Tạp chí, dù đã trải qua trên dưới 40 năm nhưng vẫn là những bài nghiên cứu mẫu mực để các thế hệ trẻ noi theo, là nền tảng lý luận cơ bản, quan trọng của khoa học pháp lý hiện nay.
Để chuẩn bị cơ sở khoa học cho tiến trình cải cánh tư pháp, trong thời gian khá dài, Tạp chí đã mở chuyên mục “Trao đổi về việc thỉnh thị và duyệt án”. Chuyên mục đã tập hợp được khối lượng độc giả tham gia đông đảo công tác tại Tòa án nhân dân tối cáo (Vũ Khắc Xương, Ngô Cường, Nguyễn Bá Kim, Hữu Chánh); Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Khuất Văn Nga, Vũ Đức Khiển); Nguyễn Trọng Nghĩa (Tòa án nhân dân tỉnh Đắc Lắc); Huỳnh Ngọc Chi (Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh)... Sau khi kết thúc chuyên mục, Tạp chí đã có quan điểm chính thức về những hệ lụy của việc duyệt và thỉnh thị án (đăng trên số 4 + 5/1988) như:
+ Hạn chế quyền độc lập khi xét xử của thẩm phán và hội thẩm nhân dân đã ghi trong Hiến pháp và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân;
+ Kìm hãm, không phát huy trình độ chuyên môn, tạo sức ỳ trong tư duy, ỷ lại trông chờ vào cấp trên của thẩm phán;
+ Không sát thực tiễn (nhiều tình tiết mới nảy sinh trong phiên tòa xét xử nhưng thẩm phán thụ động, không dám quyết định khác với ý kiến đã cho trước);
+ Hội thẩm nhân dân trở thành hình thức, luật sư bị vô hiệu hóa, bị cáo bị dồn ép, thiếu bình đẳng; bị cáo, bị đơn ngại kháng án vì biết đã có mức án trước;
+ Thẩm phán xét xử ít quan tâm tới ý kiến của Viện kiểm sát; Viện kiểm sát ngại kháng nghị vì biết đã có ý kiến của lãnh đạo;
+ Gây trì trệ, tốn kém tiền của vô ích, đôi khi tạo ra sự nghi ngờ, mâu thuẫn trong nội bộ hoặc cấp dưới với cấp trên;
+ Do thụ động, ỷ lại và nhiều khi do trình độ yếu, Tòa án đã hợp lý hóa những sai lầm của cơ quan điều tra, truy tố dẫn tới tình trạng xử oan, sai, bỏ sót tội phạm;
+ Tòa án cấp trên ngại sửa sai bản án vì đấy là ý kiến đã cho trước của mình. Do mất nhiều công sức vào việc “xét xử hộ cấp dưới” nên nhiệm vụ chính của mình như tổng kết, hướng dẫn công tác xét xử, giám đốc lại các bản án có sai sót làm không kịp thời, để dây dưa, kéo dài. Hậu quả là, uy tín của Tòa án bị giảm sút, pháp luật không phát huy được hiệu lực, tạo ra tâm lý coi thường pháp luật, sử dụng “luật rừng” để giải quyết tranh chấp trong Nhân dân.
Quan điểm của Tạp chí về những hệ lụy của việc thỉnh thị và duyệt án chắc chắn còn nguyên giá trị trong công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang được tiến hành hiện nay ở nước ta.
Bên cạnh đó, Tạp chí còn có những bài viết nghiên cứu nhằm giải quyết rành mạch mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với các cơ quan thông tấn báo chí, điển hình như bài: “Quyền nhà báo, kỷ luật phiên tòa và việc thu máy ghi âm của Tòa án Ba Đình - Hà Nội” (số 1/1990). Nội dung bài báo đã phân tích thẳng thắn, chỉ ra cái sai, cái đúng của Tòa án nhân dân quận Ba Đình - Hà Nội và cái sai, cái đúng của tổ phóng viên Báo “Giáo viên nhân dân” khi hoạt động đưa tin tại phiên tòa. Qua phân tích, bài báo đưa ra một số kiến nghị cụ thể nhằm bảo đảm cho báo chí hoạt động dân chủ, nhưng dứt khoát phải nằm trong khuôn khổ mà pháp luật đã quy định.
Có thể nói, những thành quả của Tạp chí nêu trên là chỗ dựa tin cậy, là nền tảng để anh em phóng viên, biên tập chúng tôi tự tin trong công tác và cũng từ đây tạo được sự kính trọng, vị nể của các báo, tạp chí bạn.
Một đóng góp không nhỏ của Tổng biên tập Nguyễn Văn Thảo là đã đào tạo ra những nhà báo chuyên viết về pháp luật nhưng trong các tác phẩm báo chí của mình lại chứa đậm nét thơ ca, nhân bản. Tiêu biểu trong số đó phải kể tới: Nhà báo Lê Thu Hương, một cây bút đã cho ra đời những bài bình luận án sắc xảo; Nhà báo, nhà thơ Phùng Ngọc Đức với các bài đăng trên chuyên mục “Văn học pháp lý” của Tạp chí; Nhà báo - TS. Luật học Đặng Vũ Huân với các bài nghiên cứu với hàm lượng khoa học pháp lý cao... Để rồi khi Tạp chí phát hành, tới tay bạn đọc, mọi người đều phải có những suy nghĩ, có cái nhìn khác về những người làm việc tại các cơ quan bảo vệ pháp luật. Họ là những người “cứng như thép nhưng lại dẻo, uyển chuyển, mềm như thép”.
Riêng đối với cá nhân, theo thời gian, tôi cũng lớn lên và già đi. Chẳng hiểu vô tình hay hữu ý, tôi cũng nghiện đọc “Xã luận” trên Báo Nhân dân và Tạp chí Cộng sản. Có lẽ do áp lực công việc, buộc bản thân phải tìm hiểu để xử lý những vấn đề đã và đang đặt ra trong cuộc sống. Hay nói một cách nôm na, để có thể gặp gỡ, tiếp chuyện được một cách bình đẳng với các “cây đa”, “cây đề” trong và ngoài ngành, với các nhà văn, nhà thơ, nhà báo tên tuổi thì buộc mình phải có vốn kiến thức phong phú. Và mọi thứ mình cần đều đã được thể hiện một cách cô đọng, xúc tích trong các bài “Xã luận”, trong các bài nghiên cứu đăng trên các số của Tạp chí Cộng sản. Đọc, đọc mãi rồi quen, đâm ra thích.
Cho tới khi thích đọc “Xã luận” trên Báo Nhân dân tôi mới thấm thía lời khuyên của Tổng biên tập lúc mới đi làm. Rồi từ đó, trên các diễn đàn khoa học dù lớn, dù nhỏ, từ các bục giảng lớn, sang trọng của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Giao thông - Vận tải, Bộ Công thương, Bộ Y tế, Thanh tra Chính phủ, Viện Hàm lâm Khoa học xã hội, Học viện Chính trị, Học viện Hành chính quốc gia, Tòa án nhân dân tối cao... tới bục giảng của hầu hết 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, sau khi kết thúc bài giảng về các chuyên đề của mình, tôi đều nhắc lại câu nói nhớ đời của Tổng biên tập Nguyễn Văn Thảo dặn tôi:
“Để hiểu và nắm kỹ hơn nội dung các chuyên đề tôi báo cáo, đề nghị các đồng chí đọc “Xã luận” trên Báo Nhân dân và Tạp chí Cộng sản”.
Gần 40 năm trôi qua từ ngày về nhận công tác và 10 năm rời ngôi nhà Tạp chí, nhưng tôi vô cùng cảm động và vui mừng thấy chất lượng các ấn phẩm của Tạp chí ngày càng được nâng cao, nội dung của từng số không chỉ bảo đảm hàm lượng khoa học mà còn phản ánh rõ nét hoạt động thực tiễn của Ngành Tư pháp (hàng tháng Tòa soạn vẫn gửi cho tôi những ấn phẩm của Tạp chí). Đội ngũ biên tập viên, phóng viên của Tạp chí ngày càng được tăng cường, không chỉ được đào tạo chuyên sâu về luật học mà còn được đào tạo bài bản về nghiệp vụ báo chí. Đây chính là những nhân tố làm nên thành công được ghi nhận của Tạp chí hôm nay và của ngày mai, trong đó có cả những đóng góp của lớp người đi trước, đặc biệt phải kể đến người Tổng biên tập đầu tiên của Tạp chí - Nguyễn Văn Thảo.
Nguyên Trưởng Ban Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật