Từ đầu thế kỷ XX, dòng người tị nạn đã “bùng nổ” nhiều nơi trên thế giới và có xu hướng gia tăng mạnh mẽ trong những năm qua vì tình trạng xung đột có xu hướng tăng trên thế giới và khu vực. Đối mặt với thực trạng này, hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã thiết lập một khung pháp lý để điều chỉnh vấn đề tị nạn. Do đó, việc nghiên cứu về pháp luật tị nạn là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, đây không phải là vấn đề đơn giản, có thể ảnh hưởng đến các lợi ích về an ninh, chính trị, xã hội của nước ta vì người tị nạn là một nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương nên được bảo vệ trong các công cụ pháp lý đặc thù. Ở Việt Nam, quyền tị nạn và cung cấp sự bảo vệ cho người tị nạn đã được hiến định qua các bản Hiến pháp nhưng đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thi hành trên thực tế. Nhu cầu thực tiễn trong tương lai đã được dự báo đòi hỏi các nhà lập pháp Việt Nam cần cân nhắc xây dựng một khung pháp lý về tiếp nhận người tị nạn. Vì vậy, nước ta cần nhìn nhận một cách thấu đáo, khách quan, thông qua tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới nhằm đưa ra những chính sách hiệu quả nhất, phù hợp nhất cho Việt Nam.
1. Pháp luật quốc tế về tiếp nhận người tị nạn
Thứ nhất, Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951 và Nghị định thư về vị thế của người tị nạn năm 1967.
Bước đột phá trong quá trình xây dựng pháp luật quốc tế về tị nạn là cho ra đời Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951. Đây là công ước quốc tế đầu tiên bao gồm các khía cạnh cơ bản nhất của cuộc sống người tị nạn. Công ước công nhận phạm vi quốc tế của các cuộc khủng hoảng người tị nạn và sự cần thiết của hợp tác quốc tế bao gồm cả việc chia sẻ gánh nặng giữa các quốc gia để giải quyết vấn đề này.
Sau đó, Nghị định thư về vị thế của người tị nạn năm 1967 xóa bỏ các giới hạn về thời gian và địa lý của Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951. Nền tảng của Nghị định thư này là nguyên tắc “cấm trục xuất hoặc hồi hương” người tị nạn nêu trong Điều 33. Theo nguyên tắc này, không quốc gia nào được đưa người tị nạn trở lại nơi người đó phải đối mặt với các mối đe dọa nghiêm trọng đến tự do của họ.
Như vậy, Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951 và Nghị định thư về vị thế của người tị nạn năm 1967 đều là những công cụ pháp lý quốc tế mà các quốc gia tự nguyện đồng ý ràng buộc[1].
Thứ hai, pháp luật quốc tế về bảo vệ người tị nạn tại châu Phi.
Công ước điều chỉnh các khía cạnh cụ thể của vấn đề người tị nạn ở châu Phi năm 1969 gồm 15 điều khoản. Công ước quy định nghĩa vụ của người tị nạn là tôn trọng luật pháp, quy định của quốc gia sở tại và cấm họ tham gia vào các hoạt động lật đổ chống lại bất kỳ quốc gia thành viên nào của Liên minh châu Phi[2]. Ngược lại, quốc gia tiếp nhận không được phân biệt đối xử về chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, thành viên của một nhóm xã hội cụ thể hoặc chính kiến chính trị[3].
Ngoài việc ghi nhận khái niệm người tị nạn tương tự tại Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951, Công ước điều chỉnh các khía cạnh cụ thể của vấn đề người tị nạn ở châu Phi năm 1969 có bổ sung là người tị nạn sẽ áp dụng cho người bị buộc phải rời khỏi đất nước của họ do xâm lược bên ngoài, chiếm đóng, sự thống trị của nước ngoài hoặc các sự kiện gây rối trật tự công cộng nghiêm trọng[4]. Văn bản đã thúc giục các quốc gia cấp quyền tị nạn thông qua việc quy định quốc gia thành viên sẽ nỗ lực hết sức tiếp nhận người tị nạn và bảo đảm việc định cư cho những người tị nạn[5]. Đây là một bước đi sâu hơn vào quan điểm luật quốc tế truyền thống vốn coi tị nạn là chủ quyền của quốc gia. Mặc dù quy định này chỉ mang tính khuyến nghị nhưng đã thể hiện được sự tiến bộ trong pháp luật tị nạn quốc tế.
Thứ ba, pháp luật quốc tế về bảo vệ người tị nạn tại châu Âu.
Điều 3 Công ước bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do căn bản năm 1950 (Công ước châu Âu về nhân quyền) quy định: “Không ai bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt vô nhân đạo hoặc hạ nhục”.
Tất cả các quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu (EU) đều bị ràng buộc bởi Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951 và có một khuôn khổ hợp tác khu vực phát triển về các vấn đề tị nạn, di cư gọi là Hệ thống tị nạn chung châu Âu (CEAS). Mục tiêu của Hệ thống tị nạn chung châu Âu là tạo ra cách tiếp cận hài hòa trên toàn Liên minh châu Âu. Chỉ thị số 2013/32/EU về thủ tục tị nạn nhằm bảo đảm cho việc ra quyết định xin tị nạn công bằng hơn, nhanh hơn và chất lượng hơn bằng cách đặt ra các thủ tục chung để cấp (hoặc rút lại) sự bảo hộ quốc tế ở các quốc gia thành viên. Chỉ thị số 2013/33/EU về điều kiện tiếp nhận đưa ra các tiêu chuẩn tối thiểu chung về các điều kiện tiếp nhận nhân đạo dành cho những người xin tị nạn trên khắp Liên minh châu Âu, nó thiết lập các quy tắc liên quan đến nhà ở, thực phẩm, chăm sóc sức khỏe, việc làm và các quy tắc chung chi tiết điều chỉnh các trường hợp hạn chế mà người xin tị nạn có thể bị giam giữ. Chỉ thị số 2011/95/EU về đủ điều kiện tị nạn đưa ra các tiêu chí cho người nộp đơn đủ điều kiện để được hưởng quy chế tị nạn hoặc quy chế bảo vệ bổ sung và quy định các quyền dành cho những người đã được cấp một trong những tư cách đó.
Thứ tư, pháp luật quốc tế về bảo vệ người tị nạn tại châu Mỹ.
Điều XXVII của Tuyên ngôn châu Mỹ về quyền và nghĩa vụ của con người năm 1948[6] và Điều 22 (7) của Công ước châu Mỹ về Nhân quyền năm 1969[7] đã thiết lập quyền xin tị nạn. Cả hai văn bản này đều quy định rằng, mọi người có quyền xin và được tị nạn ở lãnh thổ nước ngoài phù hợp với luật pháp của quốc gia tiếp nhận và các hiệp định quốc tế.
Tại châu lục này hình thành Tuyên bố Cartagena về người tị nạn năm 1984. Năm 1984, một nhóm đại diện chính phủ và các luật gia Mỹ Latinh nổi tiếng đã được triệu tập tại Cartagena, Colombia để thảo luận về sự bảo vệ quốc tế đối với những người tị nạn trong khu vực. Cuộc họp này đã thông qua khái niệm về người tị nạn được sử dụng trên toàn khu vực bao gồm khái niệm của Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951 và cả những người đã bỏ trốn khỏi đất nước của họ bởi vì tính mạng, sự an toàn hoặc tự do của họ đã bị đe dọa bởi bạo lực chung, xâm lược nước ngoài, xung đột nội bộ, vi phạm nghiêm trọng quyền con người. Tuyên bố đòi hỏi các cá nhân phải chứng tỏ rằng họ có nguy cơ bị ngược đãi và phải thể hiện mối liên hệ giữa bản thân họ và nguy cơ bị tổn hại thực sự. Mặc dù, Tuyên bố không ràng buộc về mặt pháp lý đối với các quốc gia nhưng hầu hết các quốc gia châu Mỹ áp dụng khái niệm này như một vấn đề thực tiễn, một số đã kết hợp khái niệm này vào luật pháp quốc gia. Tuyên bố đã được Tổ chức các quốc gia châu Mỹ (OAS), Đại hội đồng Liên Hợp Quốc và Ủy ban điều hành cố vấn của Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn tán thành[8].
Thứ năm, pháp luật quốc tế về bảo vệ người tị nạn tại Trung Đông và châu Á.
Năm 1994, Công ước Ả Rập về Quy định tình trạng người tị nạn ở các quốc gia Ả Rập đã được Liên minh các quốc gia Ả Rập (LAS) thông qua nhưng chưa có hiệu lực vì không được phê chuẩn. Năm 2001, các nước châu Á và châu Phi đã thông qua Nguyên tắc Bangkok về tình trạng và đối xử với người tị nạn. Công ước Ả Rập được đề xuất và Nguyên tắc Bangkok đều sử dụng khái niệm về người tị nạn trong Công ước điều chỉnh các khía cạnh cụ thể của vấn đề người tị nạn ở châu Phi năm 1969. Năm 2012, các quốc gia thành viên của Tổ chức hợp tác Hồi giáo đã thông qua Tuyên bố Ashgabat của Hội nghị Bộ trưởng Quốc tế của Tổ chức Hợp tác Hồi giáo về người tị nạn trong thế giới Hồi giáo tại Turkmenistan.
Tóm lại, hiện nay, pháp luật về tị nạn quốc tế đã cơ bản được hình thành, trong đó, có văn bản mang tính chất toàn cầu, có văn bản mang tính khu vực. Mặc dù, ở mỗi khu vực, mức độ ghi nhận khác nhau nhưng tất cả đều đang thay đổi theo hướng tích cực hơn. Theo thời gian, nhiều công cụ pháp lý ra đời và được các quốc gia thành viên hưởng ứng nhiệt tình hơn, có thiện chí hơn, coi vấn đề tị nạn là một trách nhiệm quốc tế mà các quốc gia cần hợp tác để giải quyết. Cùng với đó là sự bảo vệ tốt hơn, đầy đủ hơn cho người tị nạn cũng được chú trọng. Một khi tham gia vào các công ước, hiệp ước quốc tế, các quốc gia thành viên có trách nhiệm thực hiện sao cho phù hợp với các điều khoản đã cam kết. Nhiều nước đã xây dựng cho hệ thống quốc gia mình những quy định nhằm nội luật hóa các công ước trên cơ sở phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của nước mình.
2. Pháp luật tiếp nhận người tị nạn tại một số quốc gia trên thế giới
Hiện nay, trên thế giới đã có nhiều quốc gia đi đầu trong lĩnh vực tiếp nhận người tị nạn, cũng có những nước đang hoàn thiện hệ thống pháp luật để có khung pháp lý rõ ràng, hiệu quả cho vấn đề toàn cầu này.
Thứ nhất, pháp luật Canada.
Pháp luật Canada thừa nhận có hai loại người tị nạn chung là “người cần được bảo vệ” và “người tị nạn theo công ước”. Tuy nhiên, những người trong các tình huống tương tự nhưng không đủ tiêu chuẩn theo một trong hai nhóm này vẫn có thể đủ điều kiện để được bảo vệ theo “quốc gia hạng tị nạn”. Theo đó, “người tị nạn theo công ước” là những người đáp ứng điều kiện theo Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951[9]; “người cần được bảo vệ” là người đã ở tại Canada và khi trở về quốc gia xuất xứ phải đối mặt với tra tấn, rủi ro cho tính mạng, rủi ro bị đối xử hoặc trừng phạt tàn nhẫn, bất thường khi họ không thể nhận được sự bảo vệ từ Chính phủ của mình. Người đó sẽ phải đối mặt với rủi ro ở tất cả các vùng của đất nước, mặc dù người khác tại quốc gia đó không phải đối mặt với vấn đề này.
“Quốc gia hạng tị nạn” dành cho những người ở bên ngoài Canada và trong các tình huống giống như người tị nạn nhưng không đủ tiêu chuẩn của người tị nạn. Một người được coi là đối tượng của “quốc gia hạng tị nạn” nếu quan chức quản lý nhập cư xác định rằng họ đã, đang và tiếp tục bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi nội chiến, xung đột vũ trang, hoặc vi phạm nhân quyền lớn[10]. Canada đã mở rộng khái niệm, không chỉ bao gồm năm sự ngược đãi như Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951 mà còn bao gồm tất các các vấn đề mang đến rủi ro cho người tị nạn như tra tấn, nội chiến, vi phạm nhân quyền… Ngoài việc quy định các tiêu chuẩn để công nhận người tị nạn, Canada vẫn trao quyền chủ động cho quan chức nhà nước khi họ không đáp ứng các điều kiện theo Công ước.
Canada thiết lập quy trình tị nạn gồm các bước sau: Nộp đơn - Xem xét đơn yêu cầu - Quyết định tình trạng của người yêu cầu - Khiếu nại lên ban khiếu nại người tị nạn - Biện pháp khắc phục bổ sung.
Thứ hai, pháp luật Đức.
Ở Đức, người được hưởng quy chế tị nạn bao gồm: (i) Những người được “quyền tị nạn” theo Điều 16a của Hiến pháp năm 1949 (những người bị đàn áp chính trị). Loại này bao gồm những người bị Nhà nước cho “ra rìa” vì niềm tin chính trị của họ và khiến nhân phẩm của họ bị vi phạm. Những trường hợp khẩn cấp như nghèo đói hoặc nội chiến không cho phép tị nạn trong trường hợp này. (ii) “Người tị nạn theo Công ước” là những người đáp ứng đủ điều kiện theo Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951[11]. Ngược lại, với những người được “quyền tị nạn” theo Điều 16a của Hiến pháp Đức, mối nguy hiểm này không nhất thiết phải đến từ Nhà nước, mà còn có thể đến từ các đảng phái hoặc tổ chức.
Ngoài ra, Đức còn ghi nhận thêm hai trường hợp bảo vệ cho những người không đáp ứng điều kiện ở trên. Một là, “bảo vệ bổ sung” được cấp cho những người không được bảo vệ theo Điều 16a hoặc Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951, bao gồm những người bị tổn hại nghiêm trọng như bị áp đặt hoặc thi hành án tử hình; tra tấn, đối xử, trừng phạt vô nhân đạo hoặc hạ nhục; một mối đe dọa nghiêm trọng ảnh hưởng đến cuộc sống do hậu quả của bạo lực bừa bãi trong khuôn khổ xung đột vũ trang quốc tế hoặc trong nước[12]. Hai là, “cấm trục xuất” là phép thử cuối cùng cho người đang tìm kiếm sự bảo vệ không được “quyền tị nạn”, “người tị nạn theo Công ước” và “bảo vệ bổ sung” khi việc quay trở lại quốc gia xuất xứ vi phạm Công ước châu Âu về bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do cơ bản; có một mối nguy hiểm cụ thể đáng kể đến tính mạng hoặc tự do[13].
Quy trình xin tị nạn ở Đức bao gồm các bước sau: Nộp đơn xin tị nạn và đăng ký - Kiểm tra khả năng chấp nhận và thẩm quyền (thủ tục Dublin) - Phiên điều trần - Quyết định về đơn xin tị nạn.
Thứ ba, pháp luật Hàn Quốc.
Điều 2 Luật Tị nạn Hàn Quốc năm 2016 quy định khái niệm người tị nạn tương tự Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951. Ngoài ra, pháp luật nước này có ghi nhận thêm, khi không đáp ứng các điều kiện tị nạn theo Công ước nhưng bị xâm phạm đáng kể về tính mạng hoặc quyền tự do thân thể do bị đối xử vô nhân đạo như tra tấn, trừng phạt hoặc các trường hợp khác thì có thể được Bộ trưởng Bộ Tư pháp cấp giấy phép cư trú gọi là “người đã có giấy phép xuất cảnh nhân đạo”[14]. Hàn Quốc quy định cấm tiết lộ thông tin cá nhân, ảnh,… trừ trường hợp ngoại lệ khi được sự đồng ý của người xin tị nạn. Không được thông tin về đơn xin quy chế tị nạn cho quốc gia xuất xứ[15]. Điều 47 còn quy định về hình phạt khi vi phạm (phạt tù lao động đến một năm hoặc phạt tiền tới mười triệu won).
Hàn Quốc dành một chương riêng biệt để quy định về những hỗ trợ cho người xin tị nạn từ Điều 40 đến Điều 44 trong Luật Tị nạn năm 2016. Theo đó, có các hỗ trợ như chi phí sinh hoạt, cơ sở cư trú, y tế, giáo dục[16] và sau sáu tháng trôi qua kể từ ngày nộp đơn xin tị nạn, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể cấp phép lao động cho người xin quy chế tị nạn. Pháp luật nước này quy định một số đối tượng sẽ bị hạn chế khi tiếp cận các dịch vụ này như một người đang trong quá trình xét xử hành chính hoặc kiện tụng hành chính chống lại quyết định không công nhận người tị nạn, trường hợp một người đã bị thu hồi quy chế tị nạn nộp đơn xin lại mà không có bất kỳ thay đổi đáng kể nào về hoàn cảnh…[17].
Quy trình xin tị nạn tại Hàn Quốc: Nộp đơn xin quy chế tị nạn - Phỏng vấn điều tra - Quyết định công nhận hoặc không công nhận - Khiếu nại lên Bộ trưởng Tư pháp.
Tóm lại, sau khi nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật về tị nạn quốc tế và các quốc gia Canada, Đức, Hàn Quốc, tác giả rút ra một số kết luận như sau:
- Pháp luật các quốc gia đã có hệ thống pháp luật tị nạn tương đối hoàn thiện thông qua các công ước quốc tế trên toàn cầu và khu vực nhằm bảo vệ những người tị nạn.
- Mỗi hệ thống pháp luật có sự khác biệt nhưng các quốc gia này đều công nhận quyền tị nạn và cung cấp sự bảo vệ cho người tị nạn.
- Các quốc gia trên đều có luật hoặc một số đạo luật để ghi nhận các vấn đề cơ bản về tị nạn.
- Luật pháp các quốc gia đều tồn tại các quy định nhằm hỗ trợ ban đầu cho người xin tị nạn để họ theo đuổi quá trình nộp đơn xin quy chế tị nạn của mình.
3. Một số gợi mở cho Việt Nam khi xây dựng pháp luật tiếp nhận người tị nạn
Bước đầu tiên trong công cuộc xây dựng khung pháp lý về tiếp nhận người tị nạn tại Việt Nam là gia nhập Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951 và Nghị định thư về vị thế của người tị nạn năm 1967. Cùng với việc gia nhập Công ước, nước ta cũng nhanh chóng ban hành, sửa đổi các luật liên quan nhằm xây dựng khung pháp lý về tị nạn tại Việt Nam. Từ những phân tích tại các phần trên, tác giả có một số đề xuất cho cho việc xây dựng pháp luật tiếp nhận người tị nạn ở Việt Nam như sau:
3.1. Về hình thức văn bản
Việt Nam có thể xây dựng một văn bản riêng dưới hình thức là một đạo luật do Quốc hội ban hành. Bởi lẽ, vấn đề tiếp nhận tị nạn là một vấn đề mới với Việt Nam cần có một đội ngũ nghiên cứu, soạn thảo được đào tạo về chuyên môn. Hơn nữa, có rất nhiều khía cạnh cần được điều chỉnh với vấn đề mới này mà không thể chỉ sửa đổi, bổ sung một vài quy định. Việc ban hành một đạo luật mới giúp cơ quan thực thi dễ nắm bắt và vận hành hệ thống hơn.
3.2. Về nội dung
Luật tiếp nhận người tị nạn cần phải bao gồm các nội dung tối thiểu như sau:
Một là, làm rõ được khái niệm như thế nào là người tị nạn, loại trừ một số đối tượng ra khỏi khung bảo vệ của quốc gia và ngừng cung cấp sự bảo vệ khi thỏa mãn một số điều kiện nhất định.
Hai là, điều khoản về hợp tác với UNHCR. Với điều khoản này tác giả có một số đề xuất như sau: (i) Cơ quan có thẩm quyền Việt Nam có trách nhiệm trong việc cung cấp các thông tin về người tị nạn cho UNHCR; (ii) UNHCR được phép tham gia vào quá trình công nhận người tị nạn, được gặp gỡ, đại diện cho người tị nạn; (iii) Việt Nam hợp tác với UNHCR xây dựng các chương trình hỗ trợ cho người tị nạn.
Ba là, pháp luật Việt Nam phải có cơ chế đánh giá lại với các trường hợp nhận được quyết định từ chối và bị ra thông báo trục xuất. Ngoài ra, có thể quy định một số trường hợp ngoại lệ như có căn cứ hợp lý cho rằng cá nhân đó là mối nguy hiểm đối với an ninh nước ta.
Bốn là, luật tị nạn Việt Nam cần đưa vào các điều khoản nhằm bảo vệ tính bí mật thông tin liên quan đến người tị nạn như dấu vân tay, hình ảnh và dữ liệu sinh trắc học. Quy định tất cả các cơ quan, cán bộ, công chức, nhân viên được tiếp cận hồ sơ tị nạn phải bảo mật những thông tin này và đưa ra chế tài khi có vi phạm.
Năm là, quy định các điều khoản trong luật để hỗ trợ những người xin tị nạn khi họ không thể tự đáp ứng nhu cầu sinh hoạt một cách độc lập. Bao gồm tất cả các hỗ trợ cần thiết như thực phẩm, nơi ở, các cơ sở vệ sinh và y tế cơ bản.
Sáu là, thủ tục xác định tình trạng tị nạn cần bảo đảm các yếu tố cơ bản, tối thiểu của một quy trình tị nạn công bằng, hiệu quả. Tác giả có một số đề xuất sau: (i) Luật nên thành lập một cơ quan chuyên môn duy nhất chịu trách nhiệm xem xét đơn xin quy chế tị nạn; (ii) Bảo đảm duy trì đội ngũ nhân lực đủ mạnh, có chuyên môn, trình độ, được đào tạo kỹ lưỡng; (iii) Nên quy định một trọng tài, Tòa án hoặc cơ quan chuyên môn độc lập khác chịu trách nhiệm đánh giá các kháng nghị, khiếu nại; (iv) Cần tổ chức một phiên gặp mặt mà ở đó người xin tị nạn có quyền được bày tỏ ý kiến của mình với cơ quan kiểm tra và ngược lại, cơ quan có thẩm quyền có thể phỏng vấn người xin tị nạn để làm sáng tỏ các vấn đề còn mâu thuẫn; (v) Quyết định công nhận hoặc không công nhận cần được trình bày bằng văn bản và được tống đạt đến những người xin tị nạn, đại diện của họ một cách kịp thời và nếu không công nhận tị nạn phải nêu rõ lý do vì sao họ không được chấp nhận; (vi) Cần quy định một khoảng thời gian hợp lý để những người nhận được quyết định tiêu cực có thể thực hiện việc khiếu nại, kháng cáo và cho phép họ ở lại lãnh thổ cho đến khi có quyết định cuối cùng về yêu cầu.
Bảy là, khuyến khích ghi nhận rõ những đối tượng được tị nạn theo diện gia đình bao gồm các đối tượng là vợ hoặc chồng đã kết hôn hợp pháp; con chưa thành niên; trẻ chưa thành niên có người đại diện, giám hộ và cha mẹ già yếu.
3.3. Về thực thi
Để pháp luật tiếp nhận người tị nạn được thi hành hiệu quả, tác giả đề xuất một số kiến nghị như sau:
- Cần có sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương về vấn đề phân phối người tị nạn nhằm giảm áp lực cho hệ thống trung ương.
- Nên thành lập một cơ quan chuyên môn để thực hiện quy trình tị nạn và là cơ quan trực thuộc Cục Quản lý xuất nhập cảnh của Bộ Công an.
- Xây dựng cơ chế khiếu nại theo thủ tục hành chính cấp cao hơn. Theo đó, cơ quan khiếu nại có thể là Cục trưởng Cục quản lý xuất nhập cảnh.
- Cần xây dựng các chương trình hiệu quả và vận động sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, tư nhân chung tay vào quá trình này.
- Các chương trình hỗ trợ người tị nạn được xây dựng dựa theo từng nhóm chủng tộc, ngôn ngữ, phong tục tập quán để thúc đẩy quá trình hòa nhập một cách nhanh chóng.
- Nước ta nên cùng các nước trong khu vực xây dựng công cụ tiếp nhận tị nạn chung như châu Âu nhằm giải quyết vấn đề tị nạn ở quy mô lớn tránh tình trạng khủng hoảng ồ ạt.
- Nước ta có thể ký kết các thỏa thuận “nước thứ ba an toàn”. Các bên tham gia thỏa thuận cho phép người xin tị nạn có cơ hội được trình bày lý do họ từ chối sự bảo vệ của quốc gia thành viên còn lại.
Như vậy, cùng với sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu, vấn đề quyền con người đang ngày càng được quan tâm. Mối quan hệ giữa nhân quyền và dòng người tị nạn là mối quan hệ nhân quả tất nhiên. Vi phạm nhân quyền là một nguyên nhân dẫn đến làn sóng người tị nạn diễn ra ồ ạt và trở thành cơn khủng hoảng toàn cầu. Để giải quyết vấn đề toàn cầu này cần có sự tổng hòa của các biện pháp bao gồm việc ngăn chặn và các biện pháp khác. Quyền tị nạn hiện nay chưa được quốc tế nâng lên thành một quyền con người mà vẫn tồn tại yếu tố chủ quyền quốc gia. Vấn đề tị nạn là một vấn đề thời sự toàn cầu, việc tiếp nhận tị nạn gây nên những khó khăn, thách thức đối với quốc gia tiếp nhận về kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh. Làn sóng người tị nạn dâng trào mạnh mẽ từ sau chiến tranh thế giới hai, đặt ra yêu cầu phải tìm giải pháp nhằm hạn chế và tiến đến loại bỏ cuộc khủng hoảng này. Sau khi tìm hiểu, nghiên cứu pháp luật tị nạn tại Việt Nam, tác giả thấy rằng, Việt Nam đã tồn tại vấn đề tị nạn và đã được giải quyết thông qua sự hợp tác với UNHCR. Nước ta nên xây dựng một đạo luật về tiếp nhận người tị nạn bao gồm các nội dung cơ bản như: (i) Tính đủ điều kiện để được bảo vệ người tị nạn; (ii) Điều khoản về hợp tác với UNHCR; (iii) Cấm trục xuất hoặc hồi hương người tị nạn về nơi họ phải đối mặt với sự nguy hiểm; (iv) Bảo mật thông tin cá nhân người tị nạn; (v) Hỗ trợ ban đầu cho người xin tị nạn; (vi) Thủ tục xác định tình trạng tị nạn; (vii) Bảo đảm quyền đoàn tụ gia đình cho người tị nạn; (viii) Quyền được thường trú và quốc tịch.
Khoa Luật Hành chính - Nhà nước,
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh