Tóm tắt: Bài viết phân tích quy định pháp luật về hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay, những hạn chế, bất cập trong quá trình thực thi pháp luật, từ đó đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hoạt động này.
Abstract: The article analyzes the legal regulations on private bond issuance activities of enterprises in Vietnam today, limitations and inadequacies in the law implementation process, thereby proposing solutions to improve efficiency of law implementation on this activity.
1. Thực trạng pháp luật về hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại Việt Nam
1.1. Nội dung cơ bản của pháp luật về phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ
Hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay được quy định trong một số văn bản pháp luật như Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán, Luật Các tổ chức tín dụng... và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong đó, theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020, hoạt động phát hành trái phiếu được ghi nhận là một trong những quyền của doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường. Cụ thể, khi có nhu cầu huy động vốn để thực hiện chiến lược phát triển kinh doanh, các doanh nghiệp được tự do: “Lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn” (khoản 3 Điều 7). Đây là quy định thể hiện việc ghi nhận quyền tự chủ của doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn, đồng thời cũng là tiền đề khẳng định phương thức phát hành trái phiếu là một trong những công cụ huy động vốn hợp pháp trên thị trường mà thương nhân có cơ hội lựa chọn. Để cụ thể hóa quyền này của các chủ thể kinh doanh trên thị trường, trong chế định về công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần đều có quy định về quyền phát hành trái phiếu ngay trong định nghĩa của các loại hình doanh nghiệp này. Khoản 4 Điều 46 Luật Doanh nghiệp năm 2020 đề cập đến quyền phát hành trái phiếu của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên như sau: “Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên được phát hành trái phiếu theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; việc phát hành trái phiếu riêng lẻ phải tuân thủ quy định tại Điều 128 và Điều 129 của Luật này”. Trong khi đó, đối với công ty cổ phần thì khoản 3 Điều 111 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định: “Công ty cổ phần có quyền phát hành cổ phần, trái phiếu và các loại chứng khoán khác của công ty”. Bên cạnh những quy định mang tính nguyên tắc về quyền phát hành trái phiếu của các doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp năm 2020 còn đề cập đến những nội dung cụ thể về các phương thức phát hành trái phiếu (công khai hay riêng lẻ), trình tự, thủ tục, điều kiện phát hành trái phiếu của doanh nghiệp. Những vấn đề này được cụ thể hóa trong chế định về công ty cổ phần - loại hình doanh nghiệp có ưu thế về huy động vốn khi được phát hành tất cả các loại chứng khoán ra thị trường.
Đối với hình thức phát hành trái phiếu riêng lẻ, các dấu hiệu để nhận diện hình thức chào bán này trên thị trường như sau: Về số lượng nhà đầu tư doanh nghiệp được chào bán (dưới 100 nhà đầu tư), về thành phần nhà đầu tư (phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp hoặc nhà đầu tư chiến lược), về hình thức chào bán (không qua các phương tiện thông tin đại chúng). Ngoài ra, nhằm mục đích hạn chế rủi ro và nâng cao ý thức trách nhiệm bảo đảm an toàn tài chính cho các nhà đầu tư, Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định về điều kiện để các doanh nghiệp không phải công ty đại chúng phát hành trái phiếu riêng lẻ bao gồm: (i) Kết quả phát hành trái phiếu thành công của đợt phát hành trước đó (nếu có) hoặc đã thanh toán đủ các khoản nợ đến hạn trong 03 năm liên tiếp trước năm dự định phát hành trái phiếu; (ii) Có báo cáo tài chính của năm trước liền kề năm phát hành đã được kiểm toán; (iii) Bảo đảm các tỷ lệ an toàn tài chính, bảo đảm an toàn trong hoạt động. Để thực hiện hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ trên thị trường, doanh nghiệp phải tiến hành công bố thông tin trước và sau khi kết thúc đợt chào bán cho nhà đầu tư và thông báo đợt chào bán cho Sở Giao dịch chứng khoán ít nhất 01 ngày làm việc trước ngày dự định tổ chức chào bán.
Với tư cách là văn bản pháp luật chuyên ngành điều tiết trực tiếp và cụ thể hoạt động, giao dịch liên quan đến chứng khoán trên thị trường, Luật Chứng khoán năm 2019 có quy định về việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ nhưng chỉ dừng lại ở những quy định mang tính nguyên tắc, bởi lẽ, Luật Chứng khoán năm 2019 điều tiết các loại chứng khoán nói chung trong đó trái phiếu chỉ là một loại chứng khoán trên thị trường tài chính. Chính vì vậy, quy định cụ thể về hoạt động huy động vốn đặc thù này được đề cập một cách chi tiết trong Nghị định số 153/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế (Nghị định số 153/2020/NĐ-CP). Ngoài ra, vấn đề xử lý hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán nói chung và trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ nói riêng được quy định trong hai văn bản đó là Nghị định số 156/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 128/2021/NĐ-CP ngày 30/12/2021 của Chính phủ (Nghị định số 156/2020/NĐ-CP). Là văn bản trực tiếp điều chỉnh hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, nội dung Nghị định số 153/2020/NĐ-CP có những điểm tương đồng và khác biệt nhất định với những quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020 về vấn đề này. Cụ thể, Nghị định số 153/2020/NĐ-CP góp phần làm rõ các hình thức trái phiếu tồn tại trên thị trường hiện nay, quy định chi tiết về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, các điều kiện để chào bán trái phiếu riêng lẻ theo từng loại trái phiếu khác nhau, các phương thức phát hành trái phiếu và quy trình, thủ tục phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ trên thị trường. Những quy định này tựu trung lại cũng nhằm bảo đảm tính công khai, minh bạch, an toàn và hiệu quả đối với hoạt động phát hành trái phiếu không ra công chúng của doanh nghiệp. So với Luật Doanh nghiệp năm 2020, Nghị định số 153/2020/NĐ-CP đã quy định về điều kiện phát hành trái phiếu riêng lẻ một cách chặt chẽ hơn khi bổ sung hai điều kiện là có phương án phát hành trái phiếu được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chấp thuận và khoảng cách thời gian giữa các đợt phát hành trái phiếu tối thiểu là 06 tháng. Bên cạnh đó, quy trình, thủ tục phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ cũng được quy định cụ thể, chi tiết hơn với các bước như sau: (i) Chuẩn bị hồ sơ phát hành; (ii) Công bố thông tin; (iii) Tổ chức phát hành; (iii) Lưu ký, đăng ký trái phiếu. Ngoài ra, nếu là phát hành trái phiếu kèm chứng quyền hoặc trái phiếu chuyển đổi của những công ty hoạt động chuyên nghiệp thì phải thêm hai bước là chấp thuận, phê duyệt hồ sơ và báo cáo kết quả phát hành cho cơ quan có thẩm quyền. Trong trường hợp khi thực hiện chào bán trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ có vi phạm các quy định về điều kiện, quy trình, thủ tục thì chủ thể vi phạm sẽ phải gánh chịu những chế tài theo quy định của Nghị định số 156/2020/NĐ-CP. Tùy vào loại hành vi vi phạm cũng như mức độ nghiêm trọng mà chủ thể vi phạm có thể phải nộp phạt với số tiền tối thiểu là năm mươi triệu đồng và tối đa lên đến một tỷ năm trăm triệu đồng. Ngoài ra, có thể phải áp dụng một số hình phạt bổ sung như tịch thu tang vật, buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả...
1.2. Những hạn chế, bất cập trong quá trình thực thi pháp luật
Thứ nhất, mặc dù đã có quy định về các tài liệu, giấy tờ nhằm chứng minh năng lực tài chính và khả năng thanh khoản của công ty dự định phát hành trái phiếu riêng lẻ trong Nghị định số 153/2020/NĐ-CP như báo cáo tài chính có kiểm toán, thanh toán đủ cả gốc và lãi của đợt phát hành trái phiếu trước đó hoặc thanh toán đủ các khoản nợ đến hạn trong 03 năm liền kề trước đó để đủ điều kiện thực hiện việc phát hành trái phiếu nhưng trên thực tế, tình trạng không có khả năng thanh khoản khi đến hạn thanh toán của công ty phát hành vẫn xảy ra thường xuyên. Nguyên nhân của tình trạng này có thể xuất phát từ lý do chủ quan về phía doanh nghiệp như hiệu quả kinh doanh thấp, hiệu quả sử dụng vốn kém, khả năng quản trị rủi ro hạn chế... hoặc có thể từ lý do khách quan như quy định của pháp luật chưa thực sự hoàn thiện. Trong đó, những lý do chủ quan sẽ phụ thuộc vào năng lực kinh doanh của doanh nghiệp, vì vậy, chỉ có thể cải thiện tình trạng này bằng biện pháp cải tiến quy định của pháp luật hiện hành. Pháp luật về hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ tại Việt Nam hiện nay chưa đặt ra giới hạn về tỷ lệ an toàn giữa tài sản của doanh nghiệp và tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong từng thời điểm. Bên cạnh đó, cũng không tồn tại những quy định về mức vốn điều lệ tối thiểu mà doanh nghiệp phát hành phải bảo đảm khi thực hiện hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ. Mặc dù việc thiếu vắng những quy định dạng này không phải là toàn bộ lý do của tình trạng vỡ nợ trái phiếu trên thực tế nhưng sự hiện diện của chúng cũng là công cụ góp phần bảo đảm tương đối an toàn tài chính cho doanh nghiệp phát hành và giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư.
Thứ hai, pháp luật hiện hành về hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ cũng không quy định các doanh nghiệp phải có tài sản bảo đảm để có thể đủ điều kiện thực hiện hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ trên thị trường. Ở góc độ của doanh nghiệp phát hành, việc không cần có tài sản bảo đảm sẽ tạo thuận lợi cho doanh nghiệp dễ dàng sử dụng công cụ trái phiếu khi cần. Tuy nhiên, ở góc độ của nhà đầu tư, không tồn tại tài sản bảo đảm cũng đồng nghĩa với việc nguy cơ không thu hồi được gốc và lãi trái phiếu khi đến hạn thanh toán sẽ tăng lên. Nhà đầu tư sẽ phải đối mặt với thiệt hại tài sản, thua lỗ trong đầu tư và từ đó nảy sinh tâm lý e dè, thận trọng khi tiến hành đầu tư thông qua kênh trái phiếu doanh nghiệp. Về bản chất, nhà đầu tư khi mua trái phiếu đã trở thành chủ nợ của doanh nghiệp phát hành, do đó, việc có tồn tại tài sản bảo đảm không sẽ do chủ nợ và con nợ thỏa thuận với nhau. Tuy nhiên, hoạt động vay nợ thông qua phát hành trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp không hoàn toàn tương đồng với hoạt động vay nợ thông thường. Đây là hoạt động vay nợ với quy mô lớn, phạm vi chủ nợ rộng (dưới 100 nhà đầu tư) và quy trình, thủ tục thống nhất với tất cả các nhà đầu tư nên khả năng phát hành thành công sẽ cao hơn so với việc huy động vốn thông qua các hợp đồng vay cá nhân lẻ tẻ trong xã hội. Do đó, nếu đến thời điểm đáo hạn, doanh nghiệp phát hành không đủ khả năng thanh khoản sẽ gây thiệt hại trên phạm vi rộng hơn so với hoạt động vay nợ thông thường. Chính vì vậy, cần phải có quy định về tài sản bảo đảm như một nghĩa vụ của doanh nghiệp phát hành nhằm bảo đảm khả năng thu hồi cả gốc và lãi cho các nhà đầu tư.
Thứ ba, mặc dù đã có các chế tài xử lý hành vi vi phạm trong quá trình phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ được quy định trong Nghị định số 156/2020/NĐ-CP nhưng trên thực tế, hành vi vi phạm quy trình phát hành trái phiếu riêng lẻ vẫn liên tiếp diễn ra trên thị trường. Các doanh nghiệp phát hành trái phiếu riêng lẻ không nghiêm túc, không trung thực sẵn sàng bất chấp quy định của pháp luật, chấp nhận chịu phạt vì không thực hiện đúng quy trình, thủ tục để đạt được lợi ích kinh tế lớn hơn từ hoạt động phát hành trái phiếu bất hợp pháp. Sở dĩ họ sẵn sàng đánh đổi như vậy là bởi chế tài xử lý vi phạm hiện nay còn nhẹ, số tiền xử phạt đối với một số hành vi vi phạm chưa tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi nên chưa đạt được mục đích phòng ngừa và răn đe hành vi vi phạm trên thị trường trái phiếu nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung. Cụ thể, với hành vi không thực hiện công bố thông tin cho nhà đầu tư hoặc không thực hiện đăng ký, lưu ký chứng khoán hoặc thực hiện nhưng không đúng thời hạn sẽ bị phạt tiền tối thiểu năm mươi triệu đồng và tối đa là một trăm triệu đồng. Số tiền phạt như vậy không phải là lớn và nếu so sánh với giá trị số tiền vay doanh nghiệp có thể huy động được thông qua một đợt phát hành trái phiếu lên đến hàng tỷ đồng hoặc hàng chục tỷ đồng thì doanh nghiệp sẵn sàng chấp nhận chịu phạt để đạt được lợi ích kinh tế lớn gấp nhiều lần. Ngoài ra, quy định về chế tài xử lý hành vi vi phạm dưới dạng không đăng ký, lưu ký trái phiếu sau khi phát hành và hành vi đăng ký, lưu ký không đúng thời hạn cùng một mức từ bảy mươi đến một trăm triệu đồng tiền phạt là chưa hợp lý. Đây là hai hành vi vi phạm có mức độ nghiêm trọng và nguy hiểm không hoàn toàn giống nhau, hậu quả thiệt hại cho nhà đầu tư cũng khác nhau nhưng lại áp dụng cùng một mức xử phạt là chưa tương xứng với hành vi vi phạm.
Thứ tư, trong quy định của pháp luật hiện hành, chưa có quy định về vấn đề xếp hạng tín nhiệm đối với các doanh nghiệp và loại trái phiếu trên thị trường. Đây là một căn cứ rất quan trọng để nhà đầu tư có thêm thông tin đáng tin cậy, chính thống về doanh nghiệp họ dự định mua trái phiếu. Đặc biệt, trong bối cảnh nhà đầu tư Việt Nam rất hạn chế trong việc tiếp cận thông tin về doanh nghiệp phát hành trái phiếu, về năng lực tài chính, khả năng thanh khoản của doanh nghiệp phát hành thì quy định về xếp hạng tín nhiệm sẽ trở thành một công cụ hữu hiệu để cung cấp thông tin xác đáng cho nhà đầu tư. Quy định này có thể góp phần cải thiện ý thức pháp luật của doanh nghiệp phát hành và ý thức tự bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Bên cạnh đó, yêu cầu công khai, minh bạch trong phát hành trái phiếu riêng lẻ nói riêng và trên thị trường trái phiếu nói chung cũng sẽ được bảo đảm.
Thứ năm, góp phần không nhỏ vào “mảng xám” của việc thực thi pháp luật về chào bán trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ là do ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia còn rất thấp. Đối với doanh nghiệp, vì lợi ích của mình, họ sẵn sàng “chà đạp” lên các quy định pháp luật để đạt bằng được mục tiêu huy động vốn. Doanh nghiệp không từ một thủ đoạn nào từ “hô biến” nhà đầu không chuyên thành chuyên nghiệp, cho đến việc không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ quy trình phát hành trái phiếu riêng lẻ theo luật định và đẩy rủi ro về phía các nhà đầu tư. Trong khi đó, nhà đầu tư lại thiếu kinh nghiệm, thiếu thông tin, hạn chế về năng lực và không có ý thức tự bảo vệ. Thậm chí quyết định mua trái phiếu của doanh nghiệp chỉ dựa vào lãi suất mà không quan tâm đến tình hình tài chính, sự minh bạch thông tin hay khả năng thanh toán của doanh nghiệp phát hành. Cộng hưởng những bất cập từ quy định của pháp luật và ý thức còn hạn chế của các chủ thể tham gia đã làm cho hoạt động phát hành trái phiếu luôn tiềm nguy cơ rủi ro rất cao cho nhà đầu tư, cho thị trường và cho nền kinh tế.
Thứ sáu, cơ chế thực thi pháp luật về phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại Việt Nam hiện nay cũng chưa thực sự hiệu quả. Qua hoạt động quản lý giám sát thị trường, đã phát hiện nhiều doanh nghiệp vốn chủ sở hữu nhỏ, khả năng thanh khoản thấp nhưng vẫn huy động được một lượng trái phiếu lớn từ các nhà đầu tư riêng lẻ. Điều đó cho thấy thủ tục nộp hồ sơ trước khi phát hành theo quy định của pháp luật chứng khoán không mang lại nhiều ý nghĩa trong quá trình quản lý nhà nước đối với hoạt động này. Mặc dù Nghị định số 153/2020/NĐ-CP đã quy định rất nhiều giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ phát hành trái phiếu của doanh nghiệp và cả thủ tục đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán nhưng tình trạng chênh lệch lớn giữa nguồn vốn chủ sở hữu và tổng giá trị trái phiếu phát hành vẫn xảy ra. Như vậy, hoạt động quản lý và kiểm soát trước khi phát hành của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa thực sự hiệu quả, chưa phát huy được chức năng tiền kiểm của cơ quan nhà nước đối với kênh huy động vốn bằng trái phiếu trên thị trường.
2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ
Để góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ trên thị trường tại Việt Nam hiện nay, cần bảo đảm thực hiện đồng bộ một số giải pháp như sau:
Một là, sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật về hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ nhằm tạo ra một khung khổ pháp lý lành mạnh, công bằng, an toàn và hiệu quả cho sự tồn tại và phát triển của công cụ huy động vốn đang được thị trường ưa chuộng này. Cụ thể: (i) Tăng nặng chế tài xử lý đối với những hành vi vi phạm quy trình, thủ tục phát hành trái phiếu riêng lẻ đã được luật quy định đến mức có thể bảo đảm sự tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm. Từ đó, bảo đảm tính phòng ngừa và răn đe hành vi vi phạm của pháp luật về trái phiếu trên thị trường. (ii) Cân nhắc, xem xét để bổ sung quy định về tỷ lệ an toàn giữa tài sản chủ sở hữu và tổng giá trị lượng trái phiếu phát hành nhằm góp phần bảo đảm khả năng thanh khoản công ty phát hành và giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, có thể bổ sung quy định về vốn pháp định như là một trong những điều kiện doanh nghiệp dự định phát hành phải bảo đảm để có thể được tiến hành huy động vốn bằng kênh trái phiếu riêng lẻ trên thị trường. (iii) Thiết kế quy định mang tính phân loại giữa hai hành vi vi phạm “không đăng ký, lưu ký chứng khoán” và “đăng ký, lưu ký chứng khoán không đúng thời gian theo quy định” với hai mức chế tài phù hợp với tính chất nghiêm trọng của mỗi hành vi. Từ đó, bảo đảm sự tương xứng giữa chế tài và mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm, góp phần hạn chế hành vi vi phạm, bảo đảm sự an toàn, ổn định của thị trường trái phiếu nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung. (iv) Bổ sung các quy định về vấn đề xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp phát hành và loại trái phiếu trên thị trường. Các quy định về vấn đề này có thể tồn tại dưới dạng xác định tiêu chí xếp hạng, quy trình, thủ tục xếp hạng, thẩm quyền xếp hạng, công bố kết quả đánh giá tín nhiệm... Các quy định này sẽ góp phần bảo đảm xây dựng một thị trường trái phiếu công khai, minh bạch, an toàn và hiệu quả. Qua đó, cũng củng cố niềm tin của nhà đầu tư vào kênh huy động vốn đặc thù này, bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của thị trường trái phiếu.
Hai là, nâng cao ý thức trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc tôn trọng lợi ích của nhà đầu tư, chấp nhận sự kiểm soát nhất định từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc phát hành trái phiếu riêng lẻ. Từ đó, nghiêm túc, tự nguyện thực hiện các quy định về thủ tục phát hành trái phiếu riêng lẻ nhằm bảo đảm cho nhà đầu tư được tiếp cận thông tin một cách công khai, cụ thể và xác đáng. Thông qua việc tăng nặng chế tài xử lý đối với những hành vi vi phạm và tổ chức các diễn đàn, sân chơi tuyên truyền, phổ biến pháp luật về trái phiếu sẽ có thể cải thiện được ý thức pháp luật của doanh nghiệp. Mặt khác, tích cực tạo các sân chơi, diễn đàn phù hợp nhằm tuyên truyền, giải thích và phổ biến bản chất của hoạt động phát hành trái phiếu và pháp luật về kênh đầu tư này cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư cá nhân. Song song với đó là áp dụng các biện pháp nhằm tăng khả năng hiểu biết về hoạt động đầu tư chứng khoán cho nhà đầu tư, giúp cho nhà đầu tư xác định được họ phải tự chịu trách nhiệm với quyết định đầu tư của mình. Vì thế, họ sẽ phải cân nhắc các tiêu chí về chế độ vốn chủ sở hữu, tính minh bạch, hiệu quả trong sử dụng đồng vốn, tình hình tài chính của doanh nghiệp phát hành trái phiếu để quyết định mua trái phiếu mà không chỉ căn cứ trên lãi suất huy động. Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, để hoạt động đầu tư trái phiếu riêng lẻ trở nên an toàn và hiệu quả, phụ thuộc rất lớn vào ý thức, năng lực, trình độ của nhà đầu tư. Các nhà đầu tư phải trở thành chuyên gia đánh giá doanh nghiệp trước khi quyết định trở thành chủ nợ của doanh nghiệp thông qua việc sở hữu trái phiếu của doanh nghiệp đó.
Ba là, hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật về hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp bằng một số giải pháp như sau: (i) Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp phát hành trái phiếu riêng lẻ để nhanh chóng phát hiện các hành vi vi phạm và xử lý kịp thời, hạn chế tối đa rủi ro cho các nhà đầu tư, đồng thời, nâng cao ý thức, trách nhiệm tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp phát hành; (ii) Nâng cao năng lực của cán bộ trong cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán để có thể thực hiện tốt công tác tiền kiểm đối với những hồ sơ phát hành trái phiếu không bảo đảm an toàn, nguy cơ rủi ro cho nhà đầu tư; (iii) Triển khai một cách nghiêm túc, tích cực hoạt động kiểm toán nhằm xác định mức độ tín nhiệm đối với doanh nghiệp và một số loại trái phiếu cũng như phát hiện tỷ lệ thiếu an toàn giữa nguồn vốn chủ sở hữu và khối lượng trái phiếu được phát hành. Từ đó, có thể xây dựng được một thị trường trái phiếu lành mạnh, minh bạch và bền vững.
Trường Đại học Thương mại