Thứ hai 08/12/2025 05:19
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng - Thực trạng và kiến nghị

Bài viết tập trung phân tích những vướng mắc, bất cập trong quy định cũng như thực thi pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng; từ đó, đưa ra một số kiến nghị liên quan đến vấn đề này.

1. Quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam hiện nay

Theo quy định pháp luật hiện hành về bảo vệ tài nguyên rừng, “rừng” được định nghĩa chính thức tại khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 và được hoàn thiện, thay thế bởi Luật Lâm nghiệp năm 2017. Theo đó, khoản 3 Điều 2 Luật Lâm nghiệp năm 2017 quy định: “Rừng là một hệ sinh thái bao gồm các loài thực vật rừng, động vật rừng, nấm, vi sinh vật, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó thành phần chính là một hoặc một số loài cây thân gỗ, tre, nứa, cây họ cau có chiều cao được xác định theo hệ thực vật trên núi đất, núi đá, đất ngập nước, đất cát hoặc hệ thực vật đặc trưng khác, diện tích liên vùng từ 0.3 ha trở lên, độ tàn che từ 0.1 trở lên”.

Phát triển bền vững tài nguyên rừng được coi là một nhiệm vụ quan trọng trong chính sách lâm nghiệp của nước ta. Luật Lâm nghiệp năm 2017 quy định, cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư có hoạt động ảnh hưởng trực tiếp đến hệ sinh thái rừng, sinh trưởng và phát triển của các loài sinh vật rừng phải tuân thủ quy định của Luật Lâm nghiệp, pháp luật về bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học, bảo vệ và kiểm dịch thực vật, thú ý và các quy định khác có liên quan. Theo đó, tại khoản 2 Điều 26 Nghị định số 156/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp đã quy định cụ thể, trước khi tiến hành các hoạt động ảnh hưởng trực tiếp đến hệ sinh thái rừng, phải thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và chỉ được thực hiện các hoạt động đó sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép; tất cả các hoạt động ảnh hưởng trực tiếp đến hệ sinh thái rừng đều phải thực hiện theo quy định pháp luật và phải thực hiện đánh giá tác động môi trường.

Do sự săn bắn, mua bán động vật hoang dã bất hợp pháp, các loài vật ngày càng đặt trong tình trạng có nguy cơ tuyệt chủng, đặc biệt là các có giá trị kinh tế cao như loài tê tê, sóc đỏ, hươu vàng..., cùng với đó là sự suy giảm của các loài thực vật quý hiếm. Đứng trước nguy cơ các loài thực vật rừng, động vật rừng có thể biến mất, Điều 38 Luật Lâm nghiệp năm 2017 quy định, các loài thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm phải được lập danh mục để quản lý, bảo vệ. Chính phủ quy định Danh mục và chế độ quản lý, bảo vệ thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và các loài thực vật rừng hoang dã, động vật rừng hoang dã thuộc phụ lục của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp. Ngoài ra, tất cả các loài động vật rừng trong khu rừng sản xuất phải được bảo vệ, bảo đảm sinh cảnh sống tự nhiên và nguồn thức ăn của động vật rừng. Việc bảo vệ nghiêm ngặt các loài động vật rừng, thực vật rừng quý, hiếm, nguy cấp không có nghĩa là xem nhẹ việc bảo vệ các loài khác trong hệ sinh thái rừng.

Luật Lâm nghiệp năm 2017 cũng quy định nghĩa vụ của các chủ rừng, của các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp lâm nghiệp phải bảo vệ các loài động vật rừng, thực vật rừng trong quá trình quản lý, khai thác, chế biến lâm sản[1]. Bên cạnh đó, pháp luật xử lý vi phạm về quản lý và bảo vệ động vật rừng, thực vật rừng tại Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có quy định trách nhiệm pháp lý hình sự đối với các tội phạm môi trường, trong đó, có Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm (Điều 244) với mức hình phạt cao nhất áp dụng với cá nhân từ 10 đến 15 năm tù, phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 đến 05 năm; đối với pháp nhân thương mại, mức phạt tiền cao nhất từ 10.000.000.000 đồng đến 15.000.000.000 hoặc bị đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 03 năm.

Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu cùng sự tác động của con người khiến nhiều diện tích rừng bị thiêu rụi và đe dọa đến tài nguyên rừng. Để thực hiện tốt công tác phòng cháy, chữa cháy, Nhà nước đã quy trách nhiệm cho chủ rừng và những người dân sống tại khu vực này, bởi đây là những người gần và có lợi trực tiếp từ rừng nhất. Pháp luật cũng đặt ra những điều kiện an toàn về phòng cháy đối với khu rừng, quy định biển báo, nội quy, các phương án phòng cháy, chữa cháy, trang bị điện tử, dụng cụ phòng cháy và lực lượng phòng cháy... Đối với các khu rừng có đường sắt, đường dây diện cao thế, đường ống dẫn khí đốt, dầu mỏ và sản phẩm dầu mỏ đi qua các công trình có nguy cơ cháy rừng phải có đường băng cản lửa, hành lang an toàn phù hợp với rừng, loại công trình theo quy định của pháp luật và thường xuyên kiểm tra, dọn sạch vật liệu cháy trong đường băng cản lửa. Khi đốt nương rẫy, đồng ruộng, đốt thực bì để chuẩn bị đất trồng rừng và làm giảm vật liệu cháy trong rừng, người sử dụng lửa phải thực hiện các biện pháp an toàn về phòng cháy, chữa cháy; không đốt vào những ngày có dự báo nguy cơ cháy rừng ở cấp độ IV, V. Trong ngày tiến hành đốt phải đốt khi gió nhẹ, vào trước 09 giờ buổi sáng và sau 16 giờ buổi chiều để bảo đảm an toàn. Trước khi đốt phải thông báo với trưởng thôn, bản, tổ đội phòng cháy, chữa cháy rừng; trong khi đốt phải bố trí người canh gác, có đủ dụng cụ để dập lửa khi cháy lan vào rừng; sau khi đốt xong phải dập tắt hết tàn lửa. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định về trách nhiệm của những người liên quan trong công tác báo cháy, chữa cháy và tham gia chữa cháy rừng, chỉ huy chữa cháy rừng. Hơn nữa, để khắc phục hậu quả, xử lý sau khi cháy rừng, căn cứ vào mức độ thiệt hại, cần xác định và thực hiện các giải pháp chữa cháy, bao gồm các biện pháp khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên hoặc có trồng bổ sung hoặc trồng rừng mới... Ngoài ra, cần điều tra, xác định nguyên nhân, đối tượng gây cháy rừng, mức độ thiệt hại để xử lý theo quy định của pháp luật[2].

Luật Lâm nghiệp năm 2017 cũng quy định việc phòng, trừ sinh vật gây hại rừng, theo đó, chủ rừng phải thực hiện các biện pháp phòng, trừ sinh vật gây hại rừng; khi phát hiện có sinh vật gây hại rừng trên diện tích rừng được giao, được thuê thì phải báo ngay cho cơ quan bảo vệ và kiểm dịch thực vật, cơ quan quản lý chuyên ngành thú y gần nhất để được hướng dẫn và hỗ trợ biện pháp phòng, trừ; tăng cường áp dụng biện pháp lâm sinh, sinh học trong phòng, trừ sinh vật gây hại rừng. Việc phòng, trừ sinh vật gây hại rừng; nuôi hoặc chăn, thả động vật vào rừng phải thực hiện theo quy định của Luật này, pháp luật về đa dạng sinh học, bảo vệ và kiểm dịch thực vật, thú y[3].

Nhằm quản lý, bảo vệ và phát triển rừng nói chung và tài nguyên rừng nói riêng, Nhà nước thực hiện các chính sách giao rừng, cho thuê rừng và thu hồi rừng đối với các cá nhân, tổ chức vừa thực hiện việc bảo vệ, chăm sóc, nuôi trồng vừa tạo điều kiện cho dân cư ở vùng có rừng sinh sống và kinh doanh tổng hợp thế mạnh mà tài nguyên rừng mang đến. Đây là hoạt động xác định căn cứ pháp lý cho việc tiếp cận cây rừng với tư cách là chủ rừng, là bước quan trọng trong khâu quản lý rừng. Quản lý rừng không thể thực hiện được nếu không giao cho các chủ thể cụ thể, không xác định quyền và nghĩa vụ của từng chủ hộ đối với những diện tích rừng được giao[4]. Nhà nước giao rừng đặc dụng cho Ban quản lý rừng đặc dụng, tổ chức khoa học và công nghệ, đào tạo, giáo dục nghề nghiệp về lâm nghiệp, Ban quản lý rừng phòng hộ, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang, cộng đồng dân cư. Đối với rừng phòng hộ, Nhà nước giao không thu tiền sử dụng rừng đối với Ban quản lý, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, cộng đồng dân cư cư trú hợp pháp trên địa bàn cấp xã. Bên cạnh đó, Nhà nước thực hiện giao rừng sản xuất không thu tiền sử dụng rừng cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư cư trú hợp pháp trên địa bàn cấp xã nơi có diện tích rừng, đơn vị vũ trang, Ban quản lý. Các chủ thể này được giao các loại rừng cụ thể tùy theo tầm quan trọng của rừng, vai trò, chức năng của các tổ chức, cá nhân được giao. Ngoài ra, Nhà nước còn cho tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân thuê rừng sản xuất là rừng tự nhiên, rừng sản xuất là rừng trồng trả tiền thuê rừng một lần hoặc hằng năm để sản xuất lâm nghiệp và lâm, nông, ngư nghiệp kết hợp; kinh doanh du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí. Hơn nữa, Nhà nước còn thực hiện thu hồi rừng theo quy định tại Điều 22 Luật Lâm nghiệp năm 2017. Theo đó, lý do thu hồi bao gồm lý do khách quan và lý do chủ quan, lý do khách quan là rừng được giao, thuê không đúng thẩm quyền hoặc không đúng đối tượng, đã hết hạn mà không được gia hạn; lý do chủ quan là chủ rừng sử dụng không đúng mục đích, cố ý không thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước hoặc vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật về lâm nghiệp, không tiến hành hoạt động bảo vệ và phát triển rừng sau 12 tháng liên tục kể từ ngày được giao, được cho thuê rừng, tự nguyện trả lại rừng, chủ rừng là cá nhân chết không có người thừa kế. Trong trường hợp Nhà nước thu hồi vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, giao rừng, cho thuê rừng không đúng thẩm quyền hoặc không đúng đối tượng thì chủ rừng được bồi thường, hỗ trợ theo quy định của pháp luật.

Đối với các hành vi vi phạm đến tài nguyên rừng, Nghị định số 35/2019/NĐ-CP ngày 25/4/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lâm nghiệp, trong đó, quy định các hành vi vi phạm, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực lâm nghiệp. Theo đó, mức phạt hành chính cũng được xác định tùy thuộc vào giá trị vi phạm và các tài nguyên rừng. Cụ thể, Nghị định này quy định xử phạt đối với vi phạm quy định về quản lý rừng, sử dụng rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và các vi phạm về quản lý lâm sản. Ví dụ, hành vi săn bắt, giết, nuôi, nhốt động vật rừng trái quy định của pháp luật, bị xử phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các trường hợp động vật rừng thông thường trị giá dưới 10.000.000 đồng, động vật rừng thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm HB trị giá dưới 5.000.000 đồng (Điều 21) hay phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với chủ rừng không thực hiện biện pháp phòng trừ sinh vật gây hại rừng theo quy định của pháp luật, hoặc khi phát hiện sinh vật gây hại rừng nguy hiểm mà không thực hiện các biện pháp phòng trừ để lây lan dịch bệnh trên diện tích dưới 01 ha rừng được giao, được thuê (Điều 18)...

2. Vướng mắc, bất cập trong quy định và thực thi pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng và một số kiến nghị

Thứ nhất, mặc dù pháp luật đã đặt ra một hành lang pháp lý khá vững chắc với mục tiêu nhằm bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, tuy nhiên, thực tế cho thấy, quy định pháp luật hiện hành vẫn chưa thực sự được áp dụng một cách triệt để. Xuất phát từ yếu tố lợi ích kinh tế, đã xảy ra hiện tượng một bộ phận cán bộ kiểm lâm “tiếp tay” cho lâm tặc vào chặt phá rừng; trong những năm qua, hoạt động quản lý hành chính nhà nước chưa thực sự hiệu quả, còn bộc lộ một số hạn chế khi để xảy ra tình trạng mất rừng, những vi phạm làm giảm sút tài nguyên rừng thì “đùn đẩy” trách nhiệm… Chính vì vậy, để đưa pháp luật gần hơn với đời sống, trước hết, cần phải siết chặt các tình trạng “thông đồng” kiếm lời từ các hoạt động của một bộ phận cá nhân, cơ quan có thẩm quyền về quản lý rừng, cùng với đó là khắc phục những mặt còn yếu kém của công tác quản lý hành chính, thực hiện thanh tra thường xuyên, tăng cường công tác đào tạo, tập huấn, nâng cao năng lực của những chủ thể bảo vệ, quản lý rừng.

Thứ hai, Luật Lâm nghiệp năm 2017 qua hơn 05 năm triển khai, áp dụng đã thể hiện rõ hiệu quả trong việc bảo vệ tài nguyên rừng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, một số quy định của Luật Lâm nghiệp năm 2017 còn có sự chồng chéo với các chuyên ngành luật khác như: Tại khoản 5 Điều 137 Luật Đất đai năm 2013 quy định, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho tổ chức kinh tế thuê đất rừng đặc dụng, trong khi đó, tại Điều 17 Luật Lâm nghiệp năm 2017 không quy định cho tổ chức kinh tế được thuê rừng đặc dụng mà chỉ được ký hợp đồng thuê môi trường rừng đặc dụng với Ban quản lý để thực hiện xây dựng du lịch sinh thái... Điều này đặt ra yêu cầu cần phải thống nhất các quy định bảo đảm tính đồng bộ, hiệu quả, tránh sự chồng chéo giữa các văn bản luật nhằm hoàn thiện, xây dựng hệ thống pháp luật khả thi, giảm thiểu tình trạng lợi dụng các dự án phát triển kinh tế để thông qua đó, hợp pháp hóa việc phá rừng, bảo vệ phát triển rừng nói chung và bảo vệ, phát triển tài nguyên rừng nói riêng. Để khắc phục điều này, hiện nay, tại Điều 186 Luật Đất đai năm 2024 (có hiệu lực ngày 01/8/2024) đã bỏ đi thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc quyết định cho tổ chức kinh tế thuê đất rừng đặc dụng thuộc khu vực được kết hợp với kinh doanh cảnh quan, du lịch sinh thái - môi trường dưới tán rừng. Với sự điều chỉnh này đã khắc phục được tình trạng chồng chéo giữa Luật Lâm nghiệp năm 2017 với Luật Đất đai hiện hành, thể hiện sự tiến bộ trong kỹ thuật luật pháp và sự hoàn thiện của pháp luật Việt Nam.

Thứ ba, một trong những cơ chế mà Luật Lâm nghiệp năm 2017 đặt ra để bảo vệ rừng tự nhiên là việc quy định đóng cửa rừng tự nhiên, theo đó, đây là việc dừng khai thác gỗ rừng tự nhiên trong một thời gian nhất định bằng quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các trường hợp đóng cửa rừng tự nhiên được quy định tại Điều 30 của Luật này. Xét thấy, pháp luật đặt ra quy định đóng cửa rừng tự nhiên chỉ mang tính tương đối, tức là, trong một số các trường hợp khác vẫn có thể mở cửa rừng tự nhiên để khai thác gỗ, điều này vẫn tạo ra “lỗ hổng” để các chủ thể khác có điều kiện khai thác tài nguyên rừng tự nhiên. Vì vậy, tác giả kiến nghị, vĩnh viễn đóng cửa rừng tự nhiên, không cho khai thác tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên gỗ rừng. Để thực hiện phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu xã hội thì cần bảo vệ, phát triển và khai thác rừng trồng một cách hợp lý thay vì khai thác tài nguyên rừng tự nhiên.

Thứ tư, một trong những nguyên nhân làm suy giảm tài nguyên rừng là việc người dân ở các khu vực có rừng hoạt động chặt phá rừng làm nương rẫy, khai thác lâm sản quá mức. Điều này xuất phát từ đời sống kinh tế của người dân chưa thực sự được bảo đảm, do đó, cần nghiên cứu xây dựng, ban hành các quy định hướng dẫn nhằm giải quyết, bảo đảm kế sinh nhai cho cư dân sống gần rừng. Bên cạnh đó, cần khuyến khích người dân tham gia quản lý, bảo vệ rừng trên cơ chế chia sẻ công bằng lợi ích giữa Nhà nước và dân cư sinh sống tại khu vực này.

Nhìn chung, trải qua hơn 05 năm triển khai thi hành, Luật Lâm nghiệp năm 2017 đã thực hiện hiệu quả sứ mệnh của mình, đưa ra các cơ chế cụ thể để bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, hạn chế sự khai thác tài nguyên quá mức, ngăn chặn, giảm thiểu các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đạt được thì vẫn còn tồn tại những vấn đề hạn chế nhất định trong khâu quản lý lâm nghiệp, sự chồng chéo trong quy định pháp luật dẫn đến khó áp dụng pháp luật vào thực tiễn, gây khó khăn cho cơ quan áp dụng pháp luật và ảnh hưởng đến công tác bảo vệ tài nguyên rừng. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu, đánh giá và đưa ra các giải pháp cần thiết để nâng cao hiệu quả trong việc bảo vệ tài nguyên rừng trên cơ sở đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững là điều quan trọng, cấp thiết trong bối cảnh hiện nay./.

ThS. Lê Thị Khánh Hòa

Học viện Hàng không Việt Nam

[1]. Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2020), Giáo trình Luật Môi trường, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 327.

[2]. Điều 52 Nghị định số 156/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp.

[3]. Điều 40 Luật Lâm nghiệp năm 2017.

[4]. Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2020), tlđd, tr. 322.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 408), tháng 7/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Tóm tắt: Kỷ nguyên số đã và đang tạo nhiều cơ hội để tiếp cận các tác phẩm ngày càng dễ dàng hơn với nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên, thời đại kỷ nguyên số cũng đặt ra không ít thách thức trong việc bảo hộ quyền tác giả như sự xuất hiện của những loại hình tác phẩm mới, sự ra đời của những tác phẩm do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, sự gia tăng nhanh chóng của các hành vi xâm phạm với sự trợ giúp đắc lực của mạng internet cùng các công nghệ mới… Bài viết phân tích những thách thức về bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số, đồng thời đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam về vấn đề này.
Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Quấy rối tình dục tại nơi làm việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe về thể chất, tinh thần và tâm lý của người lao động, khiến cho hiệu quả công việc của họ bị giảm sút và môi trường làm việc trở nên thiếu an toàn. Do vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia đều có quy định để bảo đảm môi trường làm việc lành mạnh cũng như bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Pháp luật Việt Nam cũng đã đặt ra các quy định để ngăn ngừa, hạn chế quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Bài viết tập trung làm rõ những vấn đề pháp lý về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc trên phương diện pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Tóm tắt: Thi hành án dân sự nhanh, hiệu quả góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên có liên quan, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng. Để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động kinh doanh lành mạnh, bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế, bất cập có thể cản trở hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự theo hướng vừa bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thi hành án, vừa tạo điều kiện để doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay.
Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Tóm tắt: Định giá tài sản kê biên có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, để góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, bài viết phân tích các quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự về định giá tài sản kê biên, chỉ ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tóm tắt: Vương quốc Anh là quốc gia theo hệ thống Common Law, có tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự khá khác biệt so với các nước theo truyền thống Civil Law, trong đó đề cao tính xã hội hóa trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong quá trình phát triển, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh có một số cải cách, giúp cho hoạt động này ngày càng hiệu quả, phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ một số cải cách trong hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh, từ đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam là cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Tóm tắt: Thông báo thi hành án là thủ tục không thể thiếu trong từng giai đoạn của quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về thông báo thi hành án còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như chưa tương xứng giữa quyền với nghĩa vụ của đương sự, giữa trách nhiệm với quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và chủ yếu được thực hiện theo hình thức thông báo trực tiếp… Bài viết phân tích pháp luật thực định và thực tiễn thi hành, từ đó, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến thông báo thi hành án để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy quyền được giáo dục của con trong gia đình được thực hiện hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của trẻ em và xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam đối với việc thực hiện điều ước quốc tế, từ đó, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, bảo đảm công tác giám sát thực hiện điều ước quốc tế ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả.

Theo dõi chúng tôi trên: