Abstract: The article summarizes the formation and development of regulations on the right to keep plant varieties under the International Convention for the Protection of New Plant Varieties (UPOV) which Vietnam has acceded to in 2006 and the process of promulgating and amending them within the framework of national legislation in this regard.
1. Bối cảnh quốc tế
1.1. Quá trình ra đời của Liên minh quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới và quy định về đặc quyền của người nông dân
Năm 1961, Liên minh quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới (UPOV) ra đời. Giống cây trồng được bảo hộ phải bảo đảm đáp ứng tiêu chí “mới”, “khác biệt”, “đồng nhất” và “ổn định” (các điều 6, 7, 8, 9 Công ước UPOV năm 1961). Đối tượng bảo hộ của quyền đối với giống cây trồng bao gồm cả vật liệu nhân giống và vật liệu thu hoạch (khoản 1, khoản 2 Điều 14 Công ước UPOV năm 1961). Như vậy, đặc quyền của chủ bằng bảo hộ giống cây trồng sẽ tồn tại trong suốt các chu kỳ nhân giống của giống cây trồng được bảo hộ. Điều 5 Công ước UPOV năm 1961 giới hạn quyền của chủ bằng bảo hộ giống cây trồng bằng việc quy định lợi ích của người nông dân. Hành vi giữ giống cây trồng của nông dân từ sản phẩm thu hoạch trên mảnh ruộng của mình để trao đổi cho nhau hoặc để gieo trồng cho mùa vụ sau không được coi là nhằm mục đích thương mại nên không được coi là vi phạm quyền của chủ bằng bảo hộ giống cây trồng. Tuy nhiên, đặc quyền đó không tồn tại một cách ổn định qua các lần sửa đổi Công ước UPOV vào các năm 1972, 1978 và 1991. Hiện tại, có 02 lần sửa đổi chính vào năm 1978 và năm 1991 chi phối các bên tham gia Công ước UPOV.
Công ước UPOV sửa đổi năm 1978 không thay đổi quy định về đặc quyền của nông dân. Tuy nhiên, Công ước sửa đổi hạn chế quyền của chủ bằng bảo hộ giống cây trồng trên cơ sở lợi ích công cộng để ngăn chặn tình trạng độc quyền. Điều khoản này gián tiếp đề cập đến quyền của nông dân trong bối cảnh an ninh lương thực. Khía cạnh này cũng được thể hiện trong Công ước UPOV sửa đổi năm 1991 (Công ước UPOV năm 1991).
Công ước UPOV năm 1991 cho phép các quốc gia thành viên được lựa chọn đưa hay không đưa và ở mức độ nào vào trong khuôn khổ pháp luật quốc gia về đặc quyền của nông dân đối với việc giữ giống cây trồng. Cụ thể, khoản 2 Điều 15 Công ước UPOV năm 1991 quy định: “Mỗi bên tham gia, trong phạm vi giới hạn hợp lý và với mục đích bảo vệ lợi ích chính đáng của chủ thể tạo giống, có thể hạn chế quyền của chủ thể tạo giống liên quan tới bất kỳ giống cây trồng nào nhằm cho phép nông dân sử dụng sản phẩm thu hoạch từ việc trồng giống được bảo hộ trên thửa đất của mình cho mục đích nhân giống trên chính thửa đất đó”. Theo đó, cũng như tinh thần Công ước UPOV năm 1961, các quốc gia có thể cho phép nông dân sử dụng sản phẩm thu hoạch của giống được bảo hộ trên ruộng của họ để phục vụ mục đích nhân giống cho mùa sau nhưng hạn chế hơn khi quy định đặc quyền đó phải được điều chỉnh “trong giới hạn hợp lý và bảo đảm lợi ích hợp pháp của chủ thể tạo giống”.
1.2. Các quan điểm ủng hộ và phản đối Công ước UPOV trên phương diện quyền của người nông dân
Công ước UPOV mang lại quyền lợi cho nông dân nói riêng và nền nông nghiệp quốc gia nói chung. Sự ra đời của Công ước UPOV nhằm mục đích giảm bớt rào cản đối với thương mại quốc tế trong nông nghiệp bằng cách mở cửa thị trường các nước đang phát triển cho giống lai. Công ước UPOV thúc đẩy tạo ra các giống mới hoặc các giống cây trồng biến đổi gen có khả năng loại bỏ những khiếm khuyết truyền thống trong nông nghiệp để mang lại những đặc tính hữu ích như kháng sâu bệnh, chống chịu thời tiết và cải thiện năng suất. Các giống cải tiến theo đó sẽ nâng cao sản lượng, chất lượng của sản phẩm nông nghiệp bán ra thị trường, mang lại lợi ích to lớn cho nông dân. Bên cạnh đó, người tiêu dùng cũng được hưởng lợi từ sự đa dạng về chủng loại cây trồng. Đặc biệt, với các tính năng ưu việt trong việc cải thiện năng suất và chống chịu thời tiết, sâu bệnh, các giống cây trồng mới là lời giải cho bài toán an ninh lương thực ở nhiều quốc gia đang phát triển[1].
Tuy nhiên, Công ước UPOV là cơ chế thiếu công bằng đối với nông dân nói riêng và các quốc gia đang phát triển nói chung. Trước khi công nghệ sinh học ra đời, để tạo giống cây trồng mới, trong nhiều thế kỷ, người nông dân bản địa đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển sự đa dạng của các giống cây trồng, bảo đảm nguồn cung cấp lương thực toàn cầu. Quá trình người nông dân “truyền thống” thuần chủng giống cây trồng cũng là quá trình lựa chọn các “đột biến ngẫu nhiên xảy ra trong tự nhiên” để phát triển thành các giống đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm, nhưng hiếm khi họ đáp ứng được yêu cầu về “tính ổn định”, “tính đồng nhất” để có thể được cấp bằng bảo hộ đối với giống cây trồng[2]. Trong khi đó, các công ty lớn ở các nước phát triển sử dụng vật liệu nhân giống do nông dân bản địa tạo ra để lai tạo các giống cây trồng mới được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, người nông dân không nhận được sự đền bù thỏa đáng do Công ước UPOV không tạo ra cơ chế chia sẻ lợi ích giữa chủ bằng bảo hộ giống cây trồng mới và người nông dân tạo ra giống cây trồng bản địa. Ở cấp độ vĩ mô hơn, “dòng chảy” của các nguồn gen từ nước đang phát triển sang nước phát triển có xu hướng không được bù đắp, trong khi đó, việc thương mại hóa các giống cây trồng đã được chuyển gen của nước phát triển cho nước đang phát triển lại mang chiều hướng ngược lại[3]. Đối với các quốc gia đang phát triển, nông nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế quốc dân. So với nước phát triển, dân số trong lĩnh vực nông nghiệp ở nước đang phát triển luôn chiếm tỷ lệ lớn. Do vậy, nông nghiệp vẫn là nguồn thu nhập chính của người dân nói chung ở các nước đang phát triển. Trên quan điểm đó, các quốc gia đang phát triển cho rằng, đặc thù của nông nghiệp và tác động của chúng đối với nền kinh tế của họ đòi hỏi phải ưu tiên mục tiêu quốc gia, đặc biệt là vấn đề an ninh lương thực, khi đưa khuôn khổ bảo hộ giống cây trồng vào hệ thống pháp luật quốc gia. Thực tế, việc đưa vào thị trường các giống cây trồng mới sẽ làm giảm tính cạnh tranh của các giống cây trồng bản địa, khiến nông dân và nền nông nghiệp nói chung dần phụ thuộc vào các giống cây trồng mới. Theo đó, tiền bản quyền trả cho chủ bằng bảo hộ giống cây trồng theo chu kỳ nhân giống sẽ làm gia tăng đáng kể giá thành lương thực, khiến nguy cơ mất an ninh lương thực tại các quốc gia đang phát triển tăng cao[4].
1.3. Cơ chế tiếp cận và chia sẻ lợi ích trong Công ước Đa dạng sinh học và quyền của nông dân trong diễn đàn của Tổ chức Lương thực thế giới
Trong khi các giống được lai tạo bằng sự can thiệp của công nghệ tiên tiến làm cho chủ thể lai tạo được cấp bằng bảo hộ sở hữu trí tuệ, sự đóng góp của nông dân truyền thống vào các giống cây trồng lại không được công nhận nên cần phải có cơ chế để ghi nhận những đóng góp của họ. Năm 1992, Công ước Đa dạng sinh học (CBD) được thông qua. Điều 8 (j) của Công ước này ghi nhận sự đóng góp của cộng đồng và người dân bản địa trong việc bảo tồn và gìn giữ tài nguyên sinh vật. Bên cạnh đó, Điều 8 (j) công nhận quyền của cộng đồng và người dân bản địa được chia sẻ công bằng và bình đẳng đối với những lợi ích phát sinh từ việc sử dụng kiến thức bản địa đối với tài nguyên sinh vật. Như vậy, theo tinh thần Công ước trên, áp dụng trong lĩnh vực giống cây trồng, người nông dân bản địa phải được chủ thể lai tạo giống chia sẻ lợi ích nếu giống được tạo ra có nguồn gốc từ giống cây trồng bản địa. Cơ chế chia sẻ lợi ích này được coi là một thành phần quan trọng trong việc thực hiện quyền của nông dân.
Trên diễn đàn của Tổ chức Lương thực thế giới (FAO), khái niệm về quyền của nông dân được đưa ra vào những năm 1980 như một phản ứng trước xu hướng ngày càng đề cao quyền của người tạo giống cây trồng. Lập luận của FAO dựa trên thực tế là người nông dân đã tham gia vào quá trình bảo tồn và lưu giữ các nguồn gen sinh vật từ thời xa xưa. Do đó, họ xứng đáng được ghi nhận và “trả công” giống như đóng góp của nhà tạo giống cây trồng trong việc phát triển giống mới. Thắng lợi của quá trình này được thể hiện qua việc hình thành Hiệp ước quốc tế về nguồn gen cây trồng trong lĩnh vực lương thực và nông nghiệp (ITPGRFA) năm 2001. Hiệp ước ghi nhận sự đóng góp to lớn của cộng đồng địa phương và bản địa nói chung, người nông dân nói riêng trong việc bảo tồn và phát triển nguồn gen thực vật (Điều 9.1). Hiệp ước công nhận các quyền sau đây với tư cách là hạt nhân quyền của nông dân: (i) Quyền lưu giữ, sử dụng, trao đổi và bán hạt giống lưu giữ ở trang trại và các vật liệu nhân giống khác (Điều 9.3); (ii) Quyền được chia sẻ công bằng và bình đẳng các lợi ích phát sinh từ việc sử dụng các nguồn gen thực vật làm thực phẩm và nông nghiệp; (iii) Quyền tham gia vào quá trình ra quyết định quốc gia về nguồn gen thực vật (ủy thác cho các chính phủ quốc gia chịu trách nhiệm thực hiện các quyền này phù hợp với nhu cầu và ưu tiên của họ theo luật pháp quốc gia); (iv) Bảo vệ tri thức truyền thống (Điều 9.2). Cho đến nay, Hiệp ước ITPGRFA là văn kiện pháp lý quốc tế ghi nhận một cách đầy đủ nhất quyền của nông dân đối với giống cây trồng.
2. Bối cảnh Việt Nam
2.1. Quá trình hình thành quy định về quyền giữ giống cây trồng của nông dân trong pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam
Việt Nam quy định về quyền đối với giống cây trồng từ năm 2001 trong Nghị định số 13/2001/NĐ-CP ngày 20/4/2001 của Chính phủ về bảo hộ giống cây trồng mới (Nghị định số 13/2001/NĐ-CP). Mục tiêu của Nghị định số 13/2001/NĐ-CP nhằm khuyến khích tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế đầu tư chọn tạo, sử dụng giống cây trồng mới; góp phần phát triển nông nghiệp và nông thôn (khoản 1 Điều 1). Chủ sở hữu văn bằng bảo hộ có quyền hoặc cho phép người khác sản xuất hay nhân giống vì mục đích kinh doanh; chế biến giống vì mục đích kinh doanh; chào hàng, bán hay các hình thức kinh doanh khác; xuất khẩu, nhập khẩu, tàng trữ nhằm thực hiện các hoạt động nêu trên (khoản 1 Điều 11 Nghị định số 13/2001/NĐ-CP). Tuy nhiên, chủ sở hữu văn bằng bảo hộ không được sử dụng quyền của mình trong trường hợp giống cây trồng sử dụng cho nhu cầu cá nhân không nhằm mục đích thương mại; giống sử dụng để lai tạo ra các cây trồng mới khác, trừ trường hợp giống đó là giống có nguồn gốc thực chất từ giống được bảo hộ; giống sử dụng trong khuôn khổ quyền giữ giống của nông dân (khoản 7 Điều 11 Nghị định số 13/2001/NĐ-CP). Quyền giữ giống của nông dân được quy định cụ thể như sau: “Nông dân gieo trồng các vật liệu nhân giống được bảo hộ lấy sản phẩm thu hoạch để làm giống cho các vụ tiếp theo tại trang trại của họ hoặc trao đổi cho nhau giữa các hộ nông dân”. Như vậy, Nghị định số 13/2001/NĐ-CP mô phỏng đầy đủ quyền giữ giống cây trồng của nông dân theo tinh thần Công ước UPOV năm 1961, nghĩa là quyền giữ giống không bị giới hạn để gieo trồng cho mùa vụ sau trên mảnh ruộng của mình và được trao đổi với các hộ nông dân khác.
Ngày 18/02/2003, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã gửi văn kiện kèm theo Nghị định số 13/2001/NĐ-CP đề nghị Hội đồng Công ước UPOV xem xét tính phù hợp của pháp luật Việt Nam với Công ước UPOV năm 1991 theo thủ tục gia nhập tại Công ước. Đề cập tới quyền giữ giống của nông dân theo Nghị định số 13/2001/NĐ-CP, Hội đồng Công ước UPOV đã nêu ý kiến[5]: Điểm b khoản 7 Điều 11 Nghị định số 13/2001/NĐ-CP cho phép nông dân “trao đổi” với nhau những vật liệu thu hoạch được để sử dụng cho vụ gieo trồng năm sau, về đặc quyền của nông dân, phạm vi của điều khoản này dường như đã vượt ra ngoài sự cân bằng lợi ích giữa chủ thể tạo giống và nông dân theo ngoại lệ tùy chọn đối với quyền của chủ thể tạo giống được quy định tại khoản 2 Điều 15 Công ước UPOV năm 1991. Hội đồng khuyến nghị sửa đổi nhỏ đối với điều khoản trên nhằm giảm trao đổi giống, chỉ xem xét các nhu cầu cụ thể của những hộ nông dân nhỏ lẻ và tự cung, tự cấp, đồng thời bảo vệ quyền lợi của chủ thể tạo giống.
Ý kiến tư vấn của Hội đồng Công ước UPOV đã được tích hợp trong quá trình ban hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Theo đó, quy định tại điểm d khoản 1 Điều 190 “hộ sản xuất cá thể sử dụng sản phẩm thu hoạch từ giống cây trồng để tự nhân giống và gieo trồng cho vụ sau trên diện tích đất của mình” không bị coi là xâm phạm quyền đối với giống cây trồng đã được bảo hộ. Như vậy, quyền “trao đổi giống” giữa những người nông dân đã bị bãi bỏ, nhưng quyền “nhân giống trên mảnh đất của mình” của hộ sản xuất cá thể vẫn được giữ và quyền này không giới hạn ở những hộ nông dân nhỏ lẻ, tự cung tự cấp, mà áp dụng đối với tất cả các hộ sản xuất cá thể nói chung.
Văn kiện gia nhập kèm theo Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành tiếp tục được gửi vào ngày 25/10/2005. Bình luận về sửa đổi liên quan đến quyền giữ giống của nông dân, Hội đồng Công ước UPOV nêu ý kiến[6]: Nguyên tắc chung tại khoản 3 Điều 5 của Luật sẽ giải quyết bất cứ sai sót hoặc xung đột nào với nội dung của Công ước UPOV năm 1991; quy định tại điểm d khoản 1 Điều 190 của Luật là tương ứng với khoản 2 Điều 15 Công ước UPOV năm 1991 và dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành làm rõ thêm: Chính phủ quy định chi tiết ngoại lệ tại điểm d khoản 1 Điều 190 của Luật trong phạm vi giới hạn hợp lý và bảo đảm lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền đối với giống cây trồng; hiện tại, với việc viện dẫn nguyên tắc chung tại Điều 5 của Luật và quy định cụ thể hóa trong dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành, Luật tuân thủ Điều 15 Công ước UPOV năm 1991.
Như vậy, pháp luật Việt Nam về quyền giữ giống cây trồng của nông dân được đánh giá là phù hợp với tinh thần Công ước UPOV năm 1991. Cùng với sự phù hợp của các nội dung khác về quyền đối với giống cây trồng trong mối tương quan với Công ước UPOV năm 1991, Việt Nam đủ điều kiện gia nhập và trở thành thành viên của Công ước từ ngày 24/12/2006. Tuy nhiên, Nghị định hướng dẫn thi hành quy định “giới hạn hợp lý và bảo đảm lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền đối với giống cây trồng” chưa được ban hành trên thực tế.
Quy định giới hạn giữ giống của nông dân tại Luật Sở hữu trí tuệ cơ bản không thay đổi sau ba lần sửa đổi vào các năm 2009, 2019 và 2022.
2.2. Giải pháp
Tranh luận về giới hạn nông dân giữ giống cây trồng trên phạm vi quốc tế xoay quanh hai vấn đề cơ bản là an ninh lương thực đối với các quốc gia đang phát triển và sự công bằng đối với người nông dân. Do vậy, pháp luật quốc gia quy định về giới hạn nông dân giữ giống cây trồng cũng phải bảo đảm giải quyết hai vấn đề này. Theo quan điểm của tác giả, giải pháp nên được xây dựng từ chính nội tại quy định về giới hạn nông dân giữ giống cây trồng và những quy định có liên quan khác nhằm tối đa hóa phúc lợi cho người nông dân, trong khi vẫn bảo đảm lợi ích của chủ sở hữu và tác giả quyền đối với giống cây trồng.
2.2.1. Sửa đổi quy định về quyền giữ giống cây trồng của nông dân
Khó khăn lớn nhất trong quá trình sửa đổi luật liên quan đến ảnh hưởng tiêu cực đối với nông nghiệp và nông dân nếu quyền giữ giống cây trồng của nông dân bị giới hạn, đặc biệt khi Việt Nam còn phụ thuộc lớn vào nguồn giống nhập khẩu từ nước ngoài. Tuy nhiên, điểm d khoản 1 Điều 190 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành về bản chất là chưa tương thích với khoản 2 Điều 15 Công ước UPOV năm 1991 do không có quy định về quyền giữ giống “trong giới hạn hợp lý và để bảo vệ lợi ích hợp pháp của chủ thể tạo giống”. Sự tương thích của pháp luật Việt Nam với Công ước UPOV năm 1991 được Hội đồng Công ước UPOV đánh giá trên cơ sở nguyên tắc áp dụng pháp luật quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ. Do đó, việc không sửa đổi luật để bảo vệ lợi ích người nông dân không mang lại tác động tích cực trên phương diện pháp lý, vì mặc nhiên quy định của Công ước UPOV năm 1991 có hiệu lực trực tiếp trên lãnh thổ Việt Nam khi pháp luật quốc gia mâu thuẫn với Công ước. Tức là, nếu chủ thể quyền đối với giống cây trồng chứng minh được rằng lợi ích hợp pháp của mình bị ảnh hưởng do quyền giữ giống không giới hạn của hộ sản xuất cá thể, chủ thể quyền vẫn có thể viện dẫn khoản 2 Điều 15 Công ước UPOV năm 1991 để bảo vệ mình.
Bên cạnh đó, khi pháp luật sở hữu trí tuệ hướng tới sự cân bằng lợi ích giữa chủ thể quyền sở hữu trí tuệ với lợi ích công chúng và lợi ích toàn xã hội nói chung, quy định về quyền giữ giống của hộ sản xuất cá thể khi không có giới hạn cụ thể sẽ khiến lợi ích công cộng có xu hướng mở rộng quá mức trong mối tương quan với lợi ích của chủ thể quyền đối với giống cây trồng. Do vậy, trong xã hội sẽ xuất hiện những chủ thể hưởng lợi một cách không thỏa đáng trên thiệt hại của chủ thể quyền đối với giống cây trồng. Hơn nữa, tình trạng này cũng tạo rào cản lớn trong quá trình thực thi quyền đối với giống cây trồng, gây khó khăn trong việc kiểm soát nguồn gốc và chất lượng của giống cây trồng trên thị trường. Quy định hiện hành vô hình trung đi ngược lại xu hướng thúc đẩy xã hội tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ, khiến chủ thể tạo giống cây trồng ít có động lực sáng tạo.
Thêm vào đó, quy định giới hạn nông dân giữ giống hoàn toàn nằm trong phạm vi kiểm soát của quốc gia để hài hòa các mục tiêu khác nhau. Do Công ước UPOV năm 1991 trao quyền cho các quốc gia thành viên tự quyết định “giới hạn hợp lý” đối với quyền giữ giống của nông dân để bảo vệ lợi ích cho nhà tạo giống, Việt Nam có thể xác định giới hạn nông dân giữ giống phù hợp với mục tiêu bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và thiết lập sự “cân bằng” giữa nông dân và nhà tạo giống trên quan điểm sở hữu trí tuệ. Trên cơ sở đó, để đạt được cả tính pháp lý và thực tiễn, vấn đề được đặt ra trong quá trình cải cách pháp luật không phải nằm ở chỗ duy trì đặc quyền của người nông dân mà là xác định được “giới hạn” nào là phù hợp tương ứng với từng giai đoạn cụ thể.
2.2.2. Sửa đổi các quy định khác có liên quan
Cơ chế tiếp cận và chia sẻ lợi ích phát sinh từ nguồn gen trong Luật Đa dạng sinh học hiện hành và Nghị định số 59/2017/NĐ-CP ngày 12/5/2017 của Chính phủ về quản lý tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích từ việc sử dụng nguồn gen (Nghị định số 59/2017/NĐ-CP) là kết quả của quá trình nội luật hóa Công ước CBD. Luật Đa dạng sinh học năm 2008 và Nghị định số 59/2017/NĐ-CP yêu cầu chủ thể tiếp cận nguồn gen phải được cấp phép và lợi ích phải được chia sẻ. Theo khoản 1 Điều 61 Luật Đa dạng sinh học hiện hành, các bên được chia sẻ lợi ích bao gồm: (i) Nhà nước; (ii) Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được giao quản lý nguồn gen; (iii) Tổ chức, cá nhân được cấp phép tiếp cận nguồn gen và các bên có liên quan khác được quy định trong giấy phép tiếp cận nguồn gen. Có thể thấy, giống cây trồng bản địa là kết quả sáng tạo qua hàng trăm năm của cả cộng đồng nông dân bản địa, không riêng của “tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được giao quản lý nguồn gen” nhưng quy định về chia sẻ lợi ích chưa thể hiện sự ghi nhận về vai trò của cộng đồng địa phương trong việc bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên di truyền. Do vậy, pháp luật về cơ chế tiếp cận và chia sẻ lợi ích cần được sửa đổi để tích hợp quyền của cộng đồng bản địa nói chung và người nông dân nói riêng.
Nếu cơ chế bảo hộ quyền của người nông dân trong khuôn khổ pháp luật về quyền đối với giống cây trồng không thể giúp người nông dân vươn ra thị trường nước ngoài do rào cản của “bản quyền giống”, pháp luật sở hữu trí tuệ vẫn còn cơ chế khác để người nông dân có thể chủ động tạo ra sản phẩm mang thương hiệu của riêng mình, đó là cơ chế “chỉ dẫn địa lý”, “nhãn hiệu tập thể”, “nhãn hiệu chứng nhận”. Sản phẩm truyền thống mang đặc trưng của vùng miền sẽ phát huy thế mạnh của người nông dân, tăng sức cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế. Phát huy các cơ chế đó sẽ tạo thế “cân bằng” cho người nông dân khi đặc quyền của họ đối với giống cây trồng không thể mở rộng trong khuôn khổ pháp luật về quyền đối với giống cây trồng. Bên cạnh nỗ lực thúc đẩy phát triển giống mới trên lãnh thổ Việt Nam từ các nhà khoa học, các viện nghiên cứu, các doanh nghiệp giống cây trồng, việc bảo hộ các giống cây trồng bản địa theo quan điểm nêu trên cũng góp phần giảm tình trạng phụ thuộc vào các giống cây trồng nước ngoài tại Việt Nam hiện nay.
TS. Nguyễn Thị Minh Hạnh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Ảnh: internet
[1]. S. Ragavan (2007). To sow or not to sow: Dilemmas in Creating New Rights in Food. In KESAN, Jay P. (ed.). Agricultural biotechnology and intellectual property: seeds of change. cabi, 2007.
[2]. Winter, L. (2010). Cultivating farmers’ rights: Reconciling food security, indigenous agriculture, and TRIPS. Vand. J. Transnat’l L., 43, 223.
[3]. Oguamanam, C. (2006). Intellectual Property Rights in Plant Genetic Resources: Farmers’ Rights and Food Security of Indigenous and Local Communities. Drake J. Agric. L., 11, 273.
[4]. Borowiak, C. (2004). Farmers’ rights: Intellectual property regimes and the struggle over seeds. Politics & Society, 32(4), 511-543.
[5]. Examination of the Conformity of the Decree on the Protection of New Plant Varieties of Viet Nam with the 1991 Act of the UPOV Convention tại https://www.wipo.int/meetings/en/doc_details.jsp?doc_id=16068, truy cập ngày 2/10/2022.
[6]. Examination of the Conformity of the Decree on the Protection of New Plant Varieties of Viet Nam with the 1991 Act of the UPOV Convention tại https://www.upov.int/meetings/en/doc_details.jsp? meeting_id=9742&doc_id=58675, truy cập ngày 02/10/2022.