Có thể nhận thấy, việc gia nhập và thực hiện Công ước tống đạt giấy tờ và Công ước thu thập chứng cứ có tác động tích cực đến nhiều lĩnh vực, hoạt động, trong đó đáng chú ý là công tác xét xử, giải quyết của Tòa án đối với vụ việc dân sự có đương sự ở nước ngoài. Theo đó, có sự chuyển biến một bước về chất lượng, hiệu quả công tác xét xử, giải quyết loại vụ việc này so với thời điểm trước khi gia nhập các công ước nêu trên. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận khách quan rằng, vẫn còn đó những khó khăn, thách thức nhất định phát sinh từ quy định và thực tiễn thi hành các công ước, làm ảnh hưởng đến hoạt động xét xử, giải quyết vụ việc dân sự có đương sự ở nước ngoài. Thực tiễn đó đòi hỏi Việt Nam cần sớm quan tâm nghiên cứu để có giải pháp xử lý phù hợp, thỏa đáng cả về phương diện hoàn thiện và thực thi pháp luật trong nước cũng như thực thi các công ước.
1. Khái quát về Công ước tống đạt giấy tờ, Công ước thu thập chứng cứ và quá trình gia nhập, thực hiện của Việt Nam
1.1. Về Công ước tống đạt giấy tờ
Công ước tống đạt giấy tờ được thông qua ngày 15/11/1965, có hiệu lực từ ngày 10/02/1969. Hiện nay, Công ước có 80 thành viên tham gia, trong đó có Việt Nam.
Nhận thức rằng, tống đạt văn bản tố tụng là một trong những hoạt động không thể thiếu của tiến trình tố tụng dân sự tại Tòa án của bất kỳ quốc gia nào và thường mất nhiều thời gian và chi phí khi phải thực hiện xuyên quốc gia, Công ước tống đạt giấy tờ đã được xây dựng với mục đích đơn giản hóa quy trình tống đạt thống nhất với các kênh tống đạt thuận lợi và hợp lý để thực hiện tống đạt ra nước ngoài các văn bản của Tòa án và văn bản liên quan đến hoạt động của Tòa án. Theo đó, Công ước tống đạt giấy tờ quy định một kênh tống đạt chính thức cùng một số kênh tống đạt thay thế. Kênh tống đạt chính thức được sử dụng để chuyển giao hồ sơ tống đạt đến nước thành viên được yêu cầu tống đạt thông qua cơ quan trung ương của mỗi nước. Các kênh tống đạt thay thế, bao gồm: (i) Kênh ngoại giao hoặc lãnh sự; (ii) Kênh bưu chính; (iii) Kênh trực tiếp giữa cán bộ, công chức tư pháp hoặc cơ quan có thẩm quyền khác của nước yêu cầu tống đạt và nước được yêu cầu tống đạt; (iv) Kênh trực tiếp giữa đương sự trong vụ việc với cán bộ, công chức tư pháp hoặc cơ quan có thẩm quyền khác của nước yêu cầu tống đạt và nước được yêu cầu tống đạt.
Khi yêu cầu tống đạt và thông báo kết quả tống đạt, các nước thành viên phải sử dụng văn bản lập theo mẫu bắt buộc được xây dựng cùng Công ước. Việc thực hiện tống đạt được thực hiện theo pháp luật của nước thành viên được yêu cầu tống đạt, trừ trường hợp nước yêu cầu và nước được yêu cầu tống đạt có thỏa thuận khác. Việc tống đạt được thực hiện miễn phí, trừ một số trường hợp ngoại lệ nước thực hiện tống đạt được thu chi phí tống đạt theo hình thức thanh toán trước hoặc sau khi thực hiện tống đạt.
Một điểm đáng lưu ý là Công ước tống đạt giấy tờ còn có các quy định về thẩm quyền xét xử vắng mặt của Tòa án nước yêu cầu tống đạt và quyền kháng cáo của đương sự bị xét xử vắng mặt. Theo đó, Công ước tống đạt giấy tờ cho phép Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn trong hai trường hợp: (i) Bị đơn nhận được văn bản trong một thời gian hợp lý nhưng vắng mặt tại phiên tòa; (ii) Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa do không nhận được văn bản. Trong trường hợp bị đơn không nhận được văn bản, thì họ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn không ít hơn 12 tháng, kể từ ngày bản án được tuyên.
Ngày 16/3/2016, Việt Nam chính thức đệ trình hồ sơ đề nghị gia nhập Công ước tống đạt giấy tờ (ngày 01/10/2016, Công ước tống đạt giấy tờ chính thức có hiệu lực với Việt Nam). Khi đề nghị gia nhập Công ước tống đạt giấy tờ, Việt Nam đã đưa ra một số tuyên bố, bao gồm: (i) Việt Nam phản đối nước thành viên khác thực hiện phương thức tống đạt quy định tại Điều 8, trừ trường hợp đương sự là công dân của nước tống đạt và Điều 10 (b), (c) của Công ước; (ii) Việt Nam không phản đối nước thành viên khác tống đạt cho đương sự ở Việt Nam theo phương thức quy định tại Điều 10 (a) của Công ước với điều kiện văn bản tống đạt cần được gửi bằng thư bảo đảm[1]; (iii) Thẩm phán của Tòa án Việt Nam có thể xét xử vắng mặt bị đơn trong trường hợp không nhận được thông báo kết quả tống đạt nếu các điều kiện quy định tại đoạn 2 Điều 15 Công ước tống đạt giấy tờ được đáp ứng. Sau khi gia nhập, từ năm 2017 đến nay, Tòa án các cấp đã và đang triển khai việc thực thi Công ước tống đạt giấy tờ để phục vụ giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự có đương sự ở nước ngoài.
1.2. Về Công ước thu thập chứng cứ
Công ước thu thập chứng cứ được thông qua ngày 18/3/1970 và có hiệu lực từ ngày 7/10/1972. Hiện nay, Công ước có 65 nước thành viên, trong đó có Việt Nam.
Công ước thu thập chứng cứ thiết lập cơ chế hợp tác thu thập chứng cứ nhằm phục vụ yêu cầu giải quyết các tranh chấp dân sự hoặc thương mại tại Tòa án các nước thành viên Công ước. Công ước thu thập chứng cứ quy định hai phương thức thu thập chứng cứ độc lập với nhau:
- Phương thức thứ nhất: Thu thập chứng cứ bằng văn bản yêu cầu (quy định tại Chương I của Công ước). Theo phương thức này, một nước muốn thu thập chứng cứ trên lãnh thổ nước khác phải có văn bản yêu cầu gửi cơ quan trung ương của nước nơi chứng cứ cần được thu thập, trên cơ sở đó, nước được yêu cầu tiến hành thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật nước mình và cung cấp cho nước yêu cầu.
- Phương thức thứ hai: Thu thập chứng cứ bởi viên chức ngoại giao, viên chức lãnh sự hoặc người được bổ nhiệm/ủy quyền (Chương II của Công ước). Theo phương thức này, hoạt động thu thập chứng cứ được tiến hành đối với cá nhân có quốc tịch của nước có Tòa án yêu cầu thu thập chứng cứ; nếu nước sở tại đồng ý, thì việc thu thập chứng cứ cũng có thể áp dụng đối với công dân nước sở tại hoặc công dân nước thứ ba. Việc thu thập chứng cứ được thực hiện theo quy định pháp luật của nước nơi vụ kiện đang được Tòa án giải quyết, trừ trường hợp trái với quy định của nước nơi chứng cứ được thu thập hoặc trái với phạm vi nhiệm vụ/phạm vi ủy quyền thu thập chứng cứ. Nước thành viên Công ước thu thập chứng cứ có quyền bảo lưu không áp dụng phương thức thu thập chứng cứ này.
Đối với Việt Nam, ngày 04/3/2020, Việt Nam nộp hồ sơ đề nghị gia nhập Công ước thu thập chứng cứ. Ngày 03/5/2020, Công ước này có hiệu lực với Việt Nam. Khi gia nhập Công ước thu thập chứng cứ, Việt Nam đưa ra một số bảo lưu như: (i) Không áp dụng toàn bộ các quy định tại Chương II của Công ước; (ii) Không thực hiện yêu cầu thu thập chứng cứ đối với các tài liệu liên quan trước khi diễn ra phiên tòa, trừ khi một số điều kiện cụ thể được đáp ứng[2].
Như vậy, trong hai phương thức thu thập chứng cứ quy định tại Công ước thu thập chứng cứ, Việt Nam chỉ chấp nhận áp dụng phương thức thu thập chứng cứ dựa trên yêu cầu bằng văn bản quy định tại Chương I và Điều 23 của Công ước.
2. Tác động của việc gia nhập, thực hiện Công ước tống đạt giấy tờ và Công ước thu thập chứng cứ đối với hoạt động giải quyết, xét xử vụ việc dân sự có đương sự ở nước ngoài tại Tòa án
2.1. Những thuận lợi cơ bản đối với hoạt động xét xử của Tòa án
Thứ nhất, làm tăng thêm khả năng các yêu cầu ủy thác tư pháp của Tòa án được nước ngoài thực hiện với số lượng nhiều hơn so với yêu cầu ủy thác tư pháp theo con đường ngoại giao.
Trước khi gia nhập Công ước tống đạt và Công ước thu thập chứng cứ, Tòa án ủy thác tư pháp cho nước ngoài theo hai phương thức, đó là con đường ngoại giao và điều ước quốc tế song phương nhưng chủ yếu là phương thức ngoại giao. Bởi lẽ, trong các vụ việc dân sự có đương sự ở nước ngoài, đa số các đương sự đều có địa chỉ tại các nước, vùng lãnh thổ khác với 17 nước và 01 vùng lãnh thổ đang có điều ước quốc tế tương trợ tư pháp với Việt Nam (Nga, U-crai-na, Bê-la-rút, Ba lan, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Séc, Xlo-va-ki-a, Pháp, Lào, Cam-pu-chia, Ca-dắc-xtan, Trung Quốc, Lãnh thổ Đài Loan, Triều Tiên, Mông Cổ, An-giê-ri, Cu ba).
Trên phương diện pháp lý, việc tống đạt văn bản tố tụng và thu thập chứng cứ theo con đường ngoại giao không phải là nghĩa vụ mà nước ngoài và Việt Nam cam kết thực hiện cho nhau. Do đó, các hoạt động tố tụng hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí hợp tác của nước được Tòa án Việt Nam ủy thác thực hiện. Thực tế từ năm 2016 trở về trước phản ánh khá rõ điều này khi đa số đề nghị tống đạt văn bản tố tụng của Tòa án Việt Nam theo con đường ngoại giao đã không được nước ngoài thực hiện. Tuy nhiên, từ sau khi gia nhập Công ước tống đạt giấy tờ, tình hình ủy thác tư pháp tống đạt văn bản tố tụng đã có sự chuyển biến tích cực. Theo đó, số lượng yêu cầu ủy thác tống đạt của Tòa án đã được nước ngoài thực hiện với tỷ lệ cao hơn so với phương thức ủy thác tư pháp theo con đường ngoại giao.
Cho đến thời điểm hiện nay, có 79 nước là thành viên của Công ước tống đạt giấy tờ và 64 nước là thành viên Công ước thu thập chứng cứ (không tính Việt Nam). Với số lượng lớn thành viên như trên, Tòa án có nhiều cơ hội để yêu cầu và nhận được kết quả thực hiện tống đạt, thu thập chứng cứ từ các nước này. Bởi lẽ, về nguyên tắc, việc gia nhập các công ước là một cam kết quốc tế nên đa số các nước thành viên chỉ từ chối thực hiện trong các trường hợp mà các công ước, pháp luật trong nước có quy định hoặc xuất phát từ khó khăn trong thực tiễn dẫn đến phải từ chối thực hiện.
Thứ hai, giảm thời gian Tòa án chờ đợi thông báo kết quả thực hiện yêu cầu ủy thác tư pháp ra nước ngoài.
Trước khi gia nhập Công ước tống đạt giấy tờ, Tòa án chủ yếu ủy thác cho nước ngoài tống đạt văn bản tố tụng theo con đường ngoại giao. Thực tiễn cho thấy, phương thức ủy thác này mất rất nhiều thời gian do có sự tham gia của nhiều cơ quan trong nước và ở nước ngoài. Cụ thể, về phía Việt Nam, hồ sơ tống đạt của Tòa án phải được chuyển đến lần lượt 03 cơ quan của Việt Nam (Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài). Ở phía nước ngoài, hồ sơ tống đạt của Tòa án được tiếp tục chuyển đến lần lượt một số cơ quan của nước sở tại (Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp hoặc Tòa án, cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thực hiện). Thông báo kết quả thực hiện tống đạt cũng được chuyển ngược lại qua từng cơ quan nước ngoài và Việt Nam nêu trên trước khi đến Tòa án Việt Nam. Với quy trình như vậy, có thể nhận thấy, hồ sơ tống đạt và thông báo kết quả tống đạt cho Tòa án Việt Nam được chuyển lần lượt ít nhất qua 06 cơ quan của Việt Nam và nước ngoài. Thực tiễn cho thấy, trong trường hợp nước ngoài có thiện chí hợp tác thì thời gian trung bình kể từ khi Tòa án Việt Nam gửi hồ sơ ủy thác tư pháp cho Bộ Tư pháp Việt Nam đến khi nhận được kết quả thực hiện từ cơ quan này là 8 đến 10 tháng, nhiều trường hợp lên đến 12 tháng. Tuy nhiên, tình trạng này đã được cải thiện từ sau khi Việt Nam gia nhập Công ước tống đạt giấy tờ. Theo đó, yêu cầu tống đạt và kết quả thực hiện yêu cầu tống đạt của Tòa án Việt Nam không phải chuyển qua Bộ Ngoại giao, Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài mà chỉ chuyển qua Bộ Tư pháp. Từ đó, thời gian gửi yêu cầu tống đạt ra nước ngoài và nhận kết quả thực hiện được rút ngắn một phần so với trước đây.
Đối với Công ước về thu thập chứng cứ, mặc dù Tòa án chưa áp dụng nhiều nhưng quy trình yêu cầu thu thập chứng cứ và nhận kết quả thực hiện theo Công ước này cũng tương tự Công ước tống đạt giấy tờ. Do đó, thời gian gửi yêu cầu thu thập chứng cứ và nhận kết quả thực hiện cũng sẽ ngắn hơn so với phương thức thu thập chứng cứ bằng con đường ngoại giao.
Thứ ba, giảm tình trạng Tòa án phải ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án với lý do chờ kết quả ủy thác tư pháp.
Trước khi gia nhập Công ước tống đạt giấy tờ, Tòa án thường phải ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án có đương sự ở nước ngoài với lý do chờ kết quả ủy thác tư pháp theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004[3]. Việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án nhằm tạo thêm thời gian để Tòa án Việt Nam có thể nhận được thông báo kết quả thực hiện và không vi phạm thời hạn giải quyết vụ án. Bởi lẽ, theo quy định tại Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, thời hạn Tòa án giải quyết vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình tối đa là 08 tháng; thời hạn giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại tối đa là 05 tháng, kể từ ngày Tòa án thụ lý. Đây là các trường hợp mà Tòa án có đủ điều kiện để mở phiên tòa để xét xử các vụ án, không phân biệt vụ án thông thường hay vụ án có đương sự ở nước ngoài. Trên thực tế, thời hạn nêu trên ngắn hơn thời gian Tòa án yêu cầu ủy thác tư pháp ra nước ngoài và nhận được thông báo kết quả thực hiện. Do đó, để không vi phạm thời hạn giải quyết vụ án, Tòa án bắt buộc phải ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án khi hết thời hạn quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 mà Tòa án chưa nhận được kết quả ủy thác tư pháp.
Mặc dù vậy, thực tiễn cho thấy, đa số các trường hợp sau khi Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án để chờ kết quả ủy thác tư pháp, Tòa án vẫn không nhận được thông báo kết quả thực hiện từ nước ngoài gửi về. Tình trạng này dẫn đến một hậu quả pháp lý khác rất khó khắc phục là Tòa án không có cơ sở pháp lý để tiếp tục giải quyết vụ án. Từ đó, các vụ án sẽ bị tạm dừng giải quyết vô thời hạn, gây bức xúc cho cả Tòa án cũng như đương sự ở trong nước.
Tuy nhiên, với sự nội luật hóa một số quy định của Công ước tống đạt giấy tờ (Điều 10 (a), Điều 15 và 16) vào Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng như số lượng kết quả thực hiện yêu cầu tống đạt văn bản tố tụng theo quy định của Công ước này ngày càng tăng, Tòa án đã giảm được tình trạng phải ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án để chờ kết quả ủy thác tư pháp như trước đây.
2.2. Những khó khăn, tồn tại, thách thức đối với hoạt động xét xử của Tòa án Việt Nam
Thứ nhất, Tòa án khó bảo đảm thời hạn giải quyết vụ án và xác định thời điểm có hiệu lực của bản án cũng như chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp phúc thẩm.
Theo quy định tại Điều 5 Công ước tống đạt giấy tờ, nước được yêu cầu tống đạt thực hiện yêu cầu đó theo pháp luật của nước mình. Do đó, tùy thuộc vào quy định của mỗi nước thành viên Công ước tống đạt giấy tờ, việc tống đạt văn bản tố tụng và thông báo kết quả thực hiện cũng khác nhau về thời gian. Trên thực tế, có nhiều trường hợp Tòa án nhận được thông báo kết quả thực hiện tống đạt từ sau khoảng thời gian từ 06 đến 08 tháng. Do đó, khi Tòa án tiếp tục ủy thác tống đạt thì thời gian nhận được thông báo kết quả thực hiện thường vượt quá thời hạn giải quyết của vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Trong các trường hợp này, để hạn chế vi phạm thời hạn tố tụng, Tòa án lại phải ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án với lý do chờ kết quả ủy thác tư pháp theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015[4].
Đối với yêu cầu thu thập chứng cứ, Điều 9 Công ước về thu thập chứng cứ cũng quy định nước được yêu cầu thu thập chứng cứ áp dụng pháp luật của mình để thực hiện. Thực tiễn cho thấy, thời gian thực hiện thu thập chứng cứ thường dài hơn thời gian thực hiện yêu cầu thu thập chứng cứ. Ví dụ: Thời gian cơ quan thẩm quyền của nước Anh thực hiện yêu cầu thu thập chứng cứ (lấy lời khai và tài liệu) trung bình từ 06 đến 12 tháng[5]; thời gian thu thập chứng cứ do người có thẩm quyền của Hoa Kỳ thực hiện là từ 03 đến 06 tháng trong trường hợp đương sự tự nguyện cung cấp chứng cứ; trong trường hợp không tự nguyện, thì thời gian này thường dài hơn[6]. Như vậy, có thể phát sinh các trường hợp mà thời gian Tòa án chờ kết quả thu thập chứng cứ có thể vượt quá thời hạn giải quyết vụ việc dân sự quy định tại Điều 476 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Trong các trường hợp này, tương tự trường hợp tống đạt văn bản tố tụng, để không vi phạm thời hạn giải quyết vụ án, Tòa án lại phải ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án với lý do chờ kết quả ủy thác tư pháp (kết quả thu thập chứng cứ).
Bên cạnh đó, thực tiễn chỉ ra rằng, có nhiều trường hợp sau khi xét xử, đương sự ở trong nước không kháng cáo nhưng Tòa án không nhận được thông báo kết quả tống đạt bản án cho đương sự ở nước ngoài nên Tòa án không có căn cứ để xác định thời điểm bản án có hiệu lực. Từ đó, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án do bản án chưa có đầy đủ điều kiện để đương sự yêu cầu thi hành trên thực tế hoặc thực hiện quyền nhân thân của họ. Ngược lại, có những trường hợp sau khi xét xử thì đương sự ở trong nước có đơn kháng cáo nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không thể gửi hồ sơ vụ án, đơn kháng cáo cho Tòa án cấp phúc thẩm để giải quyết theo thẩm quyền. Bởi lẽ, Tòa án cấp sơ thẩm chưa nhận được thông báo kết quả thực hiện tống đạt bản án, thông báo kháng cáo cho đương sự ở nước ngoài nên chưa đủ điều kiện mà Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định để chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết. Do đó, trong các trường hợp này, có nhiều đương sự đã bức xúc, khiếu nại Tòa án với lý do Tòa án cố tình trì hoãn việc chuyển hồ sơ vụ án, đơn kháng cáo cho Tòa án cấp phúc thẩm làm ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Thứ hai, Tòa án gặp khó khăn trong việc đưa ra quyết định về trách nhiệm chịu chi phí tống đạt, thu thập chứng cứ của đương sự.
Theo quy định của Công ước tống đạt giấy tờ, nước thành viên Công ước có thể thu chi phí tống đạt trước hoặc sau khi thực hiện tống đạt. Thực tiễn cho thấy, nhiều nước thành viên Công ước chưa cung cấp thông tin trên trang điện tử của Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế về việc nước đó có thu hay không thu chi phí tống đạt, phương thức thanh toán. Do đó, hiện nay, Tòa án đều yêu cầu đương sự nộp 03 triệu đồng tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp theo quy định của pháp luật trong nước. Tuy nhiên, khi mở phiên tòa xét xử vắng mặt đương sự ở nước ngoài do không nhận được thông báo kết quả thực hiện tống đạt, Tòa án không có cơ sở để tuyên đương sự nào phải chịu trách nhiệm chịu chi phí tống đạt và cách xử lý số tiền 03 triệu đồng tiền tạm ứng chi phí tống đạt nêu trên. Bởi lẽ, khi chưa nhận được kết quả thực hiện tống đạt thì Tòa án không có cơ sở pháp lý để khẳng định nước được yêu cầu tống đạt thu hay không thu chi phí tống đạt. Tuy nhiên, việc Tòa án không tuyên trong bản án về vấn đề này dẫn đến việc cơ quan thi hành dân sự yêu cầu Tòa án giải quyết vì không muốn tiếp tục quản lý số tiền tạm ứng sau khi Tòa án đã ra bản án. Bên cạnh đó, có nhiều trường hợp sau khi xét xử xong Tòa án mới nhận được thông báo kết quả thực hiện tống đạt kèm theo thông báo yêu cầu thanh toán chi phí tống đạt. Đối với những trường hợp này, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì ngoài văn bản sửa chữa, bổ sung bản án, Tòa án không được phép ban hành thêm quyết định để xử lý bất kỳ vấn đề nào, bao gồm vấn đề chi phí tống đạt. Như vậy, yêu cầu thanh toán chi phí tống đạt của nước ngoài không được thực hiện trên thực tế, làm ảnh hưởng đến việc Tòa án ủy thác cho nước đó tống đạt văn bản tố tụng trong các lần tiếp theo.
Theo quy định tại Điều 14 Công ước về thu thập chứng cứ thì nước được yêu cầu thu thập chứng cứ có quyền yêu cầu nước đề nghị thu thập chứng cứ thanh toán lại chi phí đã trả cho chuyên gia, người phiên dịch hoặc chi phí thực hiện việc thu thập chứng cứ theo phương thức đặc biệt quy định tại Điều 9 của Công ước.
Theo quy định của các nước thuộc hệ thống thông luật, Tòa án không có thẩm quyền thu thập chứng cứ. Do đó, việc thực hiện thu thập chứng cứ, bao gồm lấy lời khai của đương sự, người làm chứng thường được chuyển cho luật sư thực hiện. Như vậy, việc thu thập chứng cứ do luật sư tiến hành sẽ phát sinh chi phí và bên yêu cầu thu thập chứng cứ sẽ phải thanh toán chi phí đó.
Đối với Việt Nam, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, đương sự có quyền và nghĩa vụ thu thập chủ động cung cấp chứng cứ, Tòa án chỉ thu thập chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định[7]. Trong đó, Tòa án có thể tiến hành một số biện pháp thu thập chứng cứ, bao gồm lấy lời khai của đương sự, người làm chứng[8]. Trong vụ án có đương sự ở nước ngoài, Tòa án thường tiến hành ủy thác lấy lời khai của đương sự nếu sau khi nhận được văn bản tố tụng mà đương sự không gửi cho Tòa án văn bản thể hiện ý kiến của họ đối với vụ án. Như vậy, đối với trường hợp này, nếu phát sinh yêu cầu thanh toán chi phí lấy lời khai thì Tòa án gặp khó khăn trong việc xử lý yêu cầu. Bởi lẽ, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án phải lấy lời khai của đương sự trong trường hợp đương sự chưa có lời khai hoặc lời khai chưa đầy đủ, rõ ràng, không phụ thuộc vào việc đương sự có đề nghị hay không đề nghị. Do đó, với lý do trên, đương sự sẽ không chịu thanh toán chi phí lấy lời khai của đương sự ở nước ngoài, kể cả trường hợp Tòa án viện dẫn quy định của Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 về trách nhiệm cá nhân, tổ chức yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc phải trả chi phí do làm phát sinh yêu cầu ủy thác tư pháp ra nước ngoài[9]. Trong trường hợp này, Tòa án cũng không được Nhà nước bảo đảm ngân sách để thanh toán chi phí lấy lời khai cho nước ngoài nên không có kinh phí để thanh toán cho nước ngoài.
Từ những phân tích, đánh giá trên, có thể nhận thấy, việc gia nhập và thực hiện Công ước tống đạt giấy tờ và Công ước thu thập chứng cứ không chỉ mang lại lợi ích, thuận lợi cho Tòa án trong giải quyết vụ việc dân sự có đương sự ở nước ngoài mà còn tạo ra những khó khăn, thách thức không nhỏ đối với hoạt động ủy thác tống đạt, thu thập chứng cứ để giải quyết loại vụ việc này. Điều đó, đòi hỏi sự quan tâm thích đáng của cơ quan có thẩm quyền để đưa ra được những giải pháp phù hợp nhằm tạo điều kiện cho Tòa án nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết, xét xử vụ việc dân sự có đương sự ở nước ngoài.
Lê Mạnh Hùng
Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế Tòa án nhân dân tối cao
[1]. Declaration/reservation/notification,https://www.hcch.net/en/instruments/conventions/statustable/notifications/? csid=1337&disp=resdn.
[2]. Declaration/reservation/notification, https://www.hcch.net/en/instruments/conventions/status-table/notifications/?csid=1436&disp=resdn.
[3]. Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004.
[4]. Điểm đ khoản 1 Điều 214 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[5]. United Kingdom - Central Authority (Art. 2) and practical, informationhttps://www.hcch.net/en/ states/authorities/details3/?aid=526.
[6]. United States of America - Central Authority (Art. 2) and practical information, https://www.hcch.net/en/ states/authorities/details3/?aid=528.
[7]. Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[8]. Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[9]. Điều 16 Luật Tương trợ tư pháp năm 2007.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 381), tháng 5/2023)