1. Một số vấn đề lý luận về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới
Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đánh đổ chế độ thực dân phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội với mục tiêu xây dựng một chế độ xã hội mới, thực hiện thành công mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Từ đó đến nay, cách mạng Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, đòi hỏi Đảng phải có những chiến lược, sách lược phù hợp. Lãnh đạo Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã trở thành sứ mệnh của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong bối cảnh đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, Đảng ta xác định đó là “vấn đề lớn, phức tạp, lâu dài”[1]. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với bản chất của mình, được xây dựng trên nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Ngày nay, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là rất cần thiết.
Thứ nhất, do nhu cầu tự thân của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII yêu cầu: “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới”[2]. Để giữ vững vai trò của một đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đang đứng trước những sức ép từ bên trong và bên ngoài. Bên ngoài, đó là âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Bên trong, là những hạn chế, khuyết điểm của Đảng trong vấn đề kiểm soát quyền lực của Đảng và của Nhà nước, hiện tượng lạm quyền, tham nhũng còn diễn biến phức tạp, vấn đề hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao...
Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để giữ vững bản chất của Nhà nước và xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một vấn đề lớn có tác động sâu rộng đến toàn bộ đời sống xã hội, nhưng trên thế giới lại chưa có một mô hình cụ thể. Quá trình này đòi hỏi phải kiên định lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam với quyết tâm chính trị cao, có lộ trình, bước đi cụ thể, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước hoạt động thực sự hiệu lực, hiệu quả, tôn trọng các giá trị dân chủ, pháp quyền, nhân quyền.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định những phương thức lãnh đạo là: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”[3].
Có thể khái quát bằng năm phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là: Đảng lãnh đạo bằng việc ban hành chủ trương, đường lối; thông qua công tác tổ chức bộ máy và công tác cán bộ; bằng sự nêu gương của các đảng viên của Đảng; bằng công tác kiểm tra, giám sát; bằng công tác vận động, tuyên truyền.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trước hết là việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để Đảng ta thực sự “là đạo đức, là văn minh”, mỗi đảng viên của Đảng thực sự ưu tú, xuất sắc về năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức; không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng.
Như vậy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tự chỉnh đốn và đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện các phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
2. Quá trình Đảng lãnh đạo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
2.1. Quan điểm của Đảng
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là một trong những nội dung trong đánh giá hiệu quả thực hiện vai trò cầm quyền của Đảng, là nhiệm vụ trong công tác xây dựng Đảng. Ngay từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã xác định: “Đảng phải trưởng thành về lãnh đạo chính trị, phát triển và cụ thể hóa đường lối, đề ra những giải pháp đúng đắn đối với những vấn đề mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của mình, Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: Đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác”[4]. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, cần “tăng cường vai trò lãnh đạo và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước”[5]. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng nhấn mạnh: “Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước... Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến địa phương, cơ sở... Phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước... Đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng”[6]. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X đề ra chủ trương “Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết; lãnh đạo thể chế hóa, cụ thể hóa thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn của Nhà nước; bố trí đúng cán bộ và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện”.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một chủ trương do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Đảng đã xác định nhiều quan điểm, định hướng, nhiệm vụ, giải pháp lãnh đạo việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết, kết luận của Đảng. Đồng thời, Đảng cũng có nhiều định hướng quan trọng trong việc nâng cao vị thế, vai trò của Đảng để thực hiện thành công mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thể hiện trong Hiến pháp năm 2013: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”[7].
Một trong các đặc trưng quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là đặc trưng nhất quán và xuyên suốt trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một mặt, phải bảo đảm những giá trị chung của Nhà nước pháp quyền, mặt khác, phải phù hợp với đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là một thách thức trong quá trình thực hiện, nhưng đó lại là điều kiện cho sự thành công của mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW), Đảng ta đã xác định “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vấn đề lớn, phức tạp, lâu dài”.
2.2. Những kết quả đạt được
Trên cơ sở các chủ trương trên, nhiều định hướng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đã được quy định và triển khai cụ thể trong các văn kiện của Đảng trên cả hai phương diện, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đổi mới, tăng cường các phương thức lãnh đạo của Đảng. Trong đó, công tác xây dựng Đảng được xác định là nhiệm vụ then chốt với nhiều nghị quyết quan trọng thể hiện quyết tâm lớn của Đảng, với các nghị quyết trung ương 4 khóa XI, XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; Quy định số 47-QĐ/TW ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm và đặc biệt là việc thành lập và đi vào hoạt động có hiệu quả của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Ngoài công tác chỉ đạo thực tiễn, Ban Chỉ đạo cũng đóng góp vai trò quan trọng trong công tác hoàn thiện thể chế và phát hiện đề nghị hoàn thiện thể chế, như đã ban hành Hướng dẫn số 25-HD/BCĐTW ngày 01/8/2022 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực về một số nội dung về công tác phòng, chống tiêu cực. Báo cáo tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012 - 2022 đã khẳng định, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ, toàn diện, bài bản, đi vào chiều sâu, với quyết tâm chính trị rất cao, đạt nhiều kết quả rõ rệt, đột phá, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao. Nhiều tổ chức đảng, đảng viên vi phạm đã bị xử lý, có tác dụng răn đe rất lớn, nhất là đối với cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập… Đây là những kết quả quan trọng đạt được trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thông qua công tác phòng, chống tiêu cực, nhiều thể chế đã được ban hành mới, hoặc sửa đổi, bổ sung, thay thế để cán bộ, đảng viên không thể tham nhũng, tiêu cực.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã có tác động mạnh mẽ đến việc đổi mới phát huy vai trò của các phương thức lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là phương thức kiểm tra, giám sát, phương thức lãnh đạo qua công tác cán bộ. Thời gian qua, các hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng với các đảng viên và tổ chức đảng đã được phát huy rất tốt trong việc phát hiện, xử lý đảng viên và các tổ chức đảng có những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, vi phạm các nguyên tắc hoạt động của tổ chức đảng, có biểu hiện chuyên quyền, độc đoán.
Ngoài ra, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Các nghị quyết của Đảng ngày càng cụ thể, rõ ràng, đề cập đúng và trúng vấn đề hơn, có ý nghĩa sâu sát hơn trong chỉ đạo thực tiễn. Đồng thời, công tác triển khai, đưa nghị quyết vào cuộc sống, nâng cao trách nhiệm của đảng viên trong tiếp cận và thực hiện các nghị quyết của Đảng cũng có nhiều thay đổi ở tất cả các tổ chức đảng từ Bộ Chính trị cho đến các tổ chức cơ sở đảng. Đảng cũng trực tiếp lãnh đạo sát sao hơn hoạt động thể chế hóa các quan điểm của Đảng vào pháp luật của Nhà nước. Các chủ trương của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan dân cử, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; về mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã rõ ràng, cụ thể hơn thể hiện trong Nghị quyết số 27-NQ/TW.
Công tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động, giới thiệu cán bộ ứng cử, cán bộ của Đảng cũng có nhiều thay đổi, xác định theo quy trình chặt chẽ (quy trình 05 bước), nhằm bảo đảm tính khách quan, công khai, minh bạch trong bổ nhiệm cán bộ theo Quy định số 80-QĐ/TW ngày 18/8/2022 của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử.
Theo sự lãnh đạo của Đảng, việc phân cấp, phân quyền trong bộ máy nhà nước ngày càng rõ ràng hơn, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cũng được phân định cụ thể hơn, cùng với đó, quy định về tính nêu gương của đảng viên trong các cơ quan nhà nước đã tạo ra nhiều thay đổi trong hoạt động của mỗi cơ quan nhà nước và toàn bộ bộ máy nhà nước.
2.3. Những hạn chế cần khắc phục và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Đảng ta thẳng thắn thừa nhận: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Việc thể chế hóa, cụ thể hóa một số chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật của Nhà nước chưa đầy đủ, kịp thời. Việc ban hành nghị quyết của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi; việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nghị quyết chưa nghiêm, hiệu quả thấp, chưa đạt yêu cầu đề ra. Tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng còn xảy ra ở một số nơi”[8]. Những bất cập trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước chưa được giải quyết triệt để, còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, quyền con người, quyền công dân có mặt chưa phát huy đầy đủ; cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước… Công tác cán bộ của Đảng còn bộc lộ nhiều bất cập, nhất là công tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động, luân chuyển cán bộ; tình trạng tham nhũng, tiêu cực còn diễn biến phức tạp.
Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên rất đa dạng, nhưng trong đó có những nguyên nhân quan trọng từ việc phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cụ thể: (i) Nhiều tổ chức đảng còn xem nhẹ vai trò của công tác xây dựng Đảng, người đứng đầu chưa tích cực phát huy vai trò nêu gương trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống, thực hiện nhiệm vụ chính trị...; (ii) Quyết tâm chính trị của nhiều tổ chức đảng trong thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa cao, chưa ngang tầm với yêu cầu của thực tiễn; (iii) Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, hoàn thiện lý luận chưa đựợc quan tâm đúng mức; (iv) Chất lượng công tác tuyên truyền, phổ biến, học tập nghị quyết của Đảng còn nhiều hạn chế; việc kiểm tra, giám sát và đưa nghị quyết vào cuộc sống còn nhiều bất cập, hiệu quả chưa cao; (v) Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn gặp nhiều lúng túng, quy trình thực hiện chưa rõ ràng, minh bạch, chưa được quy định cụ thể, điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc giám sát của nhân dân đối với hoạt động của các thiết chế của Đảng.
3. Giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
3.1. Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một mô hình không hoàn toàn mới, nhưng quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, từ mô hình quản lý tập trung quan liêu bao cấp cho đến nay được Nghị quyết số 27-NQ/TW xác định là “vấn đề lớn, phức tạp, lâu dài”. Sau hơn 20 năm - từ khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001 khẳng định chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, nhiều chủ trương đổi mới đã được triển khai trong thực tiễn, con đường xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ngày một sáng tỏ hơn, được xác định thông qua 08 đặc trưng, lần đầu tiên được ghi nhận trong một văn kiện của Đảng. Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần được xác định cụ thể hơn về lộ trình, bước đi cụ thể. Những chủ trương đổi mới, thí điểm cần sớm có tổng kết, rút kinh nghiệm, hoàn thiện mô hình, như chủ trương thí điểm bỏ Hội đồng nhân dân quận, huyện, phường; mô hình chính quyền đô thị đang được thí điểm ở một số địa phương; việc sáp nhập một số cơ quan của Đảng với cơ quan của Nhà nước; nhất thể hóa Bí thư với Chủ tịch Hội đồng nhân dân; nhất thể hóa Bí thư với Chủ tịch Ủy ban nhân dân… Sự chậm trễ trong công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận sẽ khó khắc phục tư duy nhiệm kỳ, có những chủ trương còn mang tính cảm tính, thiếu tầm nhìn… ảnh hưởng đến tính ổn định của chính sách, của hệ thống pháp luật, khó khắc phục được điểm yếu trong phát triển nền kinh tế thị trường và thu hút đầu tư nước ngoài. Vì vậy, cần sớm tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận và hoàn thiện mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng ban hành nghị quyết của các tổ chức đảng.
3.2. Nâng cao chất lượng ban hành, triển khai thi hành nghị quyết của các tổ chức đảng
Ban hành và triển khai thi hành nghị quyết của các tổ chức đảng là một trong những điều kiện quan trọng để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc ban hành nghị quyết phải cụ thể, bảo đảm giải quyết đúng, trúng vấn đề. Khi đó, nghị quyết của Đảng mới có vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng cho hoạt động của bộ máy nhà nước. Đồng thời, nghị quyết còn là cơ sở để Đảng thực hiện công tác kiểm tra đối với các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên của mình trong các cơ quan nhà nước.
Thời gian qua, công tác triển khai thi hành nghị quyết còn có tình trạng đối phó, hình thức, một phần là do chất lượng của nghị quyết còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Một số nghị quyết thời gian gần đây, chất lượng đã được nâng lên đáng kể, công tác triển khai thi hành có nhiều đổi mới, nhiều hội nghị phổ biến nghị quyết bằng hình thức trực tuyến đến tất cả các bộ, ngành, địa phương, đã làm thay đổi thói quen triển khai, tiếp cận nghị quyết một cách hời hợt, thiếu đồng bộ. Đồng thời, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đang được chú trọng, nâng cao, đã tác động mạnh mẽ đến ý thức của các đảng viên, các tổ chức đảng trong việc tiếp cận nghị quyết.
3.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Hiện nay, chất lượng ban hành nghị quyết, chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, việc nêu gương của cán bộ, đảng viên... đều phụ thuộc rất lớn vào chất lượng đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, còn nhiều hạn chế, vì vậy, cần đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế về tuyển dụng, sử dụng, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và hoàn thiện thể chế về công tác giới thiệu nhân sự, quy trình bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động, luân chuyển, quy hoạch đội ngũ cán bộ cấp chiến lược; bảo đảm chất lượng cán bộ, đảng viên của Đảng được giới thiệu vào các vị trí lãnh đạo trong các cơ quan của bộ máy nhà nước.
3.4. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy chế, quy định cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được kiểm soát chặt chẽ bằng các quy định pháp luật. Đây là cơ sở quan trọng để kiểm soát quyền lực của bộ máy nhà nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoạt động trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhưng việc kiểm soát quyền lực của Đảng còn nhiều bất cập, một phần quan trọng là do sự thiếu hoàn thiện các quy chế, quy định cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Trong một số lĩnh vực, nhiều quy định đã được quan tâm xây dựng nhưng tính hệ thống chưa cao, vì vậy, cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy chế, quy định cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong thời gian tới.
TS. Trần Thị Thanh Mai
Phó trưởng khoa Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị khu vực I
[1]. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 199.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 458.
[4]. Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 458.
[5]. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-ix/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-viii-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-ix-cua-dang-1545.
[6]. Văn kiện Đảng toàn tập, tập 65, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr. 358.
[7]. Khoản 1 Điều 4 Hiến pháp năm 2013.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XIII, tập 1, tr. 217.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 389), tháng 9/2023)