
![]() |
Toàn cảnh phiên họp Hội đồng thẩm định chính sách Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi). |
Trình bày tóm tắt nội dung chính trong dự thảo chính sách của Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi), đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết việc xây dựng Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi) là rất cần thiết nhằm thể chế hóa những chủ trương mới của Đảng về giáo dục và đào tạo nói chung và giáo dục nghề nghiệp nói riêng. Từ đó, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn thi hành Luật Giáo dục nghề nghiệp, tạo sự thống nhất, đồng bộ với Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi.
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế các quy định pháp luật và quá trình thực thi pháp luật hiện hành về giáo dục nghề nghiệp; kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn, giải quyết được “nút thắt” trong thực tiễn nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng 05 chính sách trong dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi), gồm: (i) chính sách số 1: đổi mới cơ cấu hệ thống giáo dục nghề nghiệp. Nội dung của chính sách là hình thành chương trình trung học nghề trong giáo dục nghề nghiệp đào tạo tích hợp kiến thức cốt lõi của chương trình trung học phổ thông và chuyên môn nghề; đẩy mạnh hướng nghiệp, phân luồng; hình thành mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp tinh gọn, hiệu quả; (ii) chính sách số 2: đổi mới chương trình, tổ chức đào tạo và bảo đảm chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Chính sách này nhằm khắc phục các tồn tại, vướng mắc, yếu kém của hệ thống giáo dục nghề nghiệp nhằm thúc đẩy mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn mới; thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; thể chế hóa chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; (iii) chính sách số 3: thu hút hiệu quả doanh nghiệp và đầu tư nước ngoài vào giáo dục nghề nghiệp. Mục tiêu của chính sách nhằm đổi mới quy định, chính sách thu hút nhà giáo là người nước ngoài và lao động của doanh nghiệp tham gia giảng dạy các trình độ giáo dục nghề nghiệp; khuyến khích hỗ trợ nhà giáo, giảng viên, giáo viên các lĩnh vực ngành, nghề trọng điểm; đổi mới quy định, chính sách hợp tác quốc tế, đầu tư nước ngoài trong giáo dục nghề nghiệp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục nghề nghiệp, phù hợp với các nước trong khu vực và trên thế giới, tiến tới công nhận lẫn nhau về trình độ, kỹ năng, thúc đẩy dịch chuyển lao động giữa Việt Nam và các nước; (iv) chính sách số 4: đổi mới cơ chế, chính sách tài chính và đầu tư dựa trên chất lượng, hiệu quả, công khai, minh bạch của cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Chính sách này nhằm khắc phục các hạn chế, bất cập qua rà soát, đánh giá các quy định hiện hành liên quan đến tài chính trong giáo dục nghề nghiệp; thể chế hóa chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước về đổi mới cơ chế tài chính trong giáo dục nghề nghiệp; đổi mới phương thức đầu tư, phân bổ ngân sách, hoàn thiện chính sách tài chính, học phí, giá dịch vụ bảo đảm minh bạch, hiệu quả và phù hợp đặc thù lĩnh vực; tăng cường tự chủ và trách nhiệm giải trình về tài chính của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp; (v) chính sách số 5: đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp. Mục tiêu của chính sách này nhằm thể chế hóa các nội dung đã được Hiến pháp, Đảng, Quốc hội quyết nghị về việc phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước và cải cách hành chính, cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục hành chính; tăng cường tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp về tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản, hoạt động chuyên môn; nâng cao hiệu quả giải trình với Nhà nước và xã hội; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phát huy trách nhiệm người đứng đầu, tự chủ của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp; kết hợp phương thức “tiền kiểm” và “hậu kiểm”, nhất là đào tạo các ngành nghề đặc thù; cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh, đơn giản hóa trình tự, thủ tục thực hiện thủ tục hành chính trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp.
![]() |
Đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo trình bày này tóm tắt các nội dung chính trong dự thảo chính sách của Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi). |
Tại phiên họp, các đại biểu tham dự đã tập trung thảo luận và góp ý về nhiều nội dung liên quan đến dự thảo chính sách của Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi), cụ thể: (i) về sự cần thiết xây dựng chính sách, một số ý kiến cho rằng hồ sơ dự thảo chính sách của Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi) mới dừng lại ở việc liệt kê một số hạn chế, bất cập mà chưa chỉ rõ nguyên nhân từ thực tiễn. Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cần bổ sung phần đánh giá cơ sở thực tiễn một cách đầy đủ, xác đáng hơn. Đồng thời, cần nghiên cứu kỹ Điều 27 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 để bảo đảm tính phù hợp về thẩm quyền và hình thức văn bản; (ii) về tính thống nhất và đồng bộ của chính sách, nhiều ý kiến đánh giá hồ sơ được chuẩn bị khá công phu và cơ bản đáp ứng các yêu cầu về hình thức, nội dung theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, cần tiếp tục rà soát để bảo đảm sự thống nhất giữa các văn bản trong hồ sơ. Các nội dung chính sách cần được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu đồng bộ với hệ thống chính sách chung đang được sửa đổi, bổ sung trong dự thảo Luật Giáo dục và dự thảo Luật Giáo dục đại học, đồng thời phải thể hiện rõ tính đặc thù riêng của giáo dục nghề nghiệp; (iii) đối với nội dung chính sách số 2, có đại biểu đề xuất tách riêng một nhóm chính sách chuyên biệt về chất lượng đào tạo, trong đó bao gồm các nội dung liên quan đến bảo đảm chất lượng, kiểm định chất lượng đối với các chương trình đào tạo chất lượng cao và trình độ cao. Việc xây dựng chính sách về chất lượng được xem là thiết yếu trong bối cảnh đây là một trong ba đột phá chiến lược, có tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh và năng suất lao động quốc gia; (iv) đối với chính sách số 4, một số ý kiến đề nghị tiếp tục hoàn thiện các quy định liên quan đến quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp. Trong đó, cần làm rõ vai trò của doanh nghiệp trong việc tham gia vào quá trình đào tạo, phối hợp với cơ sở giáo dục nghề nghiệp cũng như cơ chế bảo đảm quyền lợi chính đáng cho doanh nghiệp khi tham gia hoạt động này.
![]() |
Đồng chí Nguyễn Thanh Tú, Thứ trưởng Bộ Tư pháp phát biểu kết luận phiên họp. |
Kết luận phiên họp, đồng chí Nguyễn Thanh Tú, Thứ trưởng Bộ Tư pháp nhấn mạnh một số nội dung trọng tâm mà cơ quan chủ trì soạn thảo cần tiếp tục hoàn thiện trong quá trình xây dựng dự thảo chính sách Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi), cụ thể:
Thứ nhất, về sự cần thiết của các chính sách, cần làm rõ hơn trong Tờ trình các điểm mới mang tính đột phá, đồng thời xác định rõ đây là đề xuất xây dựng luật mới thay thế hay là sửa đổi, bổ sung của luật hiện hành.
Thứ hai, cơ quan chủ trì soạn thảo cần rà soát và cập nhật đầy đủ các chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước để bảo đảm sự phù hợp và thống nhất với dự thảo chính sách Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi).
Thứ ba, cần hoàn thiện báo cáo đánh giá tác động đối với toàn bộ 05 chính sách. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến việc đánh giá kỹ hơn mối quan hệ giữa chính sách số 3 về thu hút doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư và chính sách số 4 về tài chính, đầu tư, bảo đảm sự phân định rõ ràng giữa phần hỗ trợ của Nhà nước và phần xã hội hóa. Báo cáo đánh giá tác động cần được lập theo mẫu quy định tại Nghị định số 78/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm các nội dung về đánh giá tác động về tài chính, nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao và cơ chế huy động chuyên gia từ khu vực doanh nghiệp, thủ tục hành chính mới phát sinh cũng như đánh giá về bình đẳng giới.
Thứ tư, cần tăng cường nội dung về phân cấp, phân quyền, phù hợp với tinh thần của Kết luận số 155-KL/TW ngày 17/5/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về một số nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung thực hiện về sắp xếp tổ chức bộ máy và đơn vị hành chính. Đồng thời, cần bổ sung tài liệu đánh giá về phân cấp, phân quyền vào hồ sơ theo đúng mẫu quy định./.