
![]() |
Toàn cảnh buổi làm việc. |
Xác định các “điểm nghẽn” do quy định của pháp luật
Tại buổi làm việc, đồng chí Nguyễn Thị Phương Liên, Phó Vụ trưởng Vụ Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đã báo cáo về các nội dung cơ bản của dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội (dự thảo Nghị quyết), theo đó, việc xác định các điểm nghẽn, rào cản từ quy định pháp luật là bước đi đầu tiên nhưng mang ý nghĩa then chốt. Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng các phương án xử lý có trọng tâm, hiệu quả và đúng hướng.
Nhằm bảo đảm tính thống nhất trong việc nhận diện và áp dụng, dự thảo Nghị quyết quy định cụ thể cách thức xác định khó khăn, vướng mắc do quy định pháp luật, làm cơ sở để sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật, từ đó, tháo gỡ những rào cản đang cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Các khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, gồm: (i) quy định mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu thống nhất trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật hoặc giữa các văn bản quy phạm pháp luật; (ii) quy định của văn bản quy phạm pháp luật không phù hợp với thực tiễn; không bảo đảm tính khả thi; (iii) quy định của văn bản quy phạm pháp luật hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp; hạn chế việc đổi mới, sáng tạo, khơi thông nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; (iv) quy định của văn bản quy phạm pháp luật không rõ ràng, minh bạch, tạo gánh nặng chi phí tuân thủ không cần thiết, gây khó khăn trong áp dụng, thực hiện pháp luật; (v) chưa có quy định điều chỉnh các vấn đề mới, xu hướng mới.
Trên cơ sở các khó khăn, vướng mắc chung, dự thảo Nghị quyết quy định các khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật được ưu tiên xử lý theo quy định của dự thảo Nghị quyết, gồm: (i) thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; thúc đẩy chuyển đổi xanh, kinh tế xanh; bảo đảm quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản và quyền tự do hợp đồng; cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện đầu tư, kinh doanh, thủ tục hành chính bất hợp lý; (ii) tạo cơ sở pháp lý để khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận hiệu quả các nguồn vốn, đất đai, nhân lực chất lượng cao; thúc đẩy hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu; hỗ trợ thực chất, hiệu quả doanh nghiệp nhỏ và vừa; thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo; (iii) phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số tạo hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, phi truyền thống để hình thành các động lực tăng trưởng mới, thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất mới, các ngành công nghiệp mới; (iv) nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế phục vụ xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng; (v) tạo cơ chế, chính sách đột phá, vượt trội, cạnh tranh cho trung tâm tài chính quốc tế, khu thương mại tự do, khu kinh tế trọng điểm; (vi) sắp xếp tổ chức bộ máy, phân quyền, phân cấp.
![]() |
Đồng chí Nguyễn Thị Phương Liên, Phó Vụ trưởng Vụ Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật báo cáo tại buổi làm việc. |
Nguyên tắc xử lý các khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật
Nhằm bảo đảm tính thống nhất, minh bạch và hiệu lực của hệ thống pháp luật, dự thảo Nghị quyết quy định về các nguyên tắc khi xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật. Các nguyên tắc này đóng vai trò định hướng cho quá trình sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc, tránh tình trạng xử lý tùy tiện, chồng chéo, gây khó khăn trong thực thi; đồng thời, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp, cũng như giảm thiểu rủi ro và chi phí tuân thủ. Các nguyên tắc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật được quy định cụ thể như sau: (i) bảo đảm thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng; (ii) việc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật phải nhanh chóng, kịp thời; phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và giải quyết được các vấn đề của thực tiễn, đưa pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh; (iii) tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp; (iv) kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; phòng, chống lợi ích nhóm, cục bộ trong quá trình xử lý các khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật; (v) bảo đảm việc thực hiện kịp thời và đầy đủ các cam kết quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; (vi) bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức trong việc tiếp cận thông tin, thực hiện các quyền, nghĩa vụ và các thủ tục theo quy định của pháp luật.
Tại buổi làm việc, các đại biểu tham dự đã tập trung thảo luận về những nội dung cốt lõi của dự thảo Nghị quyết. Trong đó, liên quan đến phạm vi điều chỉnh, nhiều ý kiến đề xuất dự thảo Nghị quyết cần bám sát định hướng tại Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Việc này nhằm xác định rõ các khó khăn, vướng mắc do quy định pháp luật gây ra, từ đó lựa chọn đúng những nội dung cần ưu tiên xử lý, tháo gỡ. Bên cạnh đó, một số ý kiến cho rằng cần cân nhắc kỹ lưỡng việc quy định thời hạn xử lý các khó khăn, vướng mắc, nhằm bảo đảm tính khả thi và nâng cao hiệu quả thực thi trong thực tiễn.
Đổi mới tư duy, xác định đúng trọng tâm, tháo gỡ hiệu quả các “điểm nghẽn” trong quy định của pháp luật để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
Phát biểu kết luận buổi làm việc, đồng chí Nguyễn Thanh Tú, Thứ trưởng Bộ Tư pháp đánh giá cao nỗ lực của Vụ Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trong việc khẩn trương xây dựng dự thảo Nghị quyết trong thời gian ngắn, Thứ trưởng khẳng định việc ban hành Nghị quyết là cần thiết, không chỉ để cụ thể hóa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới mà còn nhằm phục vụ trực tiếp cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
![]() |
Đồng chí Nguyễn Thanh Tú, Thứ trưởng Bộ Tư pháp phát biểu kết luận buổi làm việc. |
Đồng thời, Thứ trưởng nhấn mạnh một số định hướng cụ thể cần tập trung thực hiện trong quá trình hoàn thiện dự thảo Nghị quyết:
Thứ nhất, cần có tư duy đổi mới, cách làm đột phá, khác với phương pháp truyền thống. Trong bối cảnh cả nước đang tích cực thực hiện các chủ trương lớn về phân cấp, phân quyền và thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đây là thời điểm thích hợp để tiến hành rà soát hệ thống pháp luật, xử lý các vướng mắc nhằm hướng tới một khuôn khổ pháp lý ổn định, thống nhất và đồng bộ trong giai đoạn tới.
Thứ hai, về tên gọi của dự thảo Nghị quyết, Thứ trưởng đề nghị điều chỉnh thành “Nghị quyết của Quốc hội về xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế”, đồng thời thu hẹp phạm vi điều chỉnh để bảo đảm sự tương thích với tên gọi mới.
Thứ ba, dự thảo Nghị quyết cần xác định rõ các nhóm vấn đề có tính cấp bách, trọng tâm, trọng điểm để tập trung xử lý, tránh dàn trải. Nội dung dự thảo Nghị quyết cần tập trung vào ba nhóm vướng mắc chủ yếu: (i) các quy định mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu thống nhất trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật hoặc giữa các văn bản quy phạm pháp luật; (ii) các quy định không rõ ràng, minh bạch, gây khó khăn cho quá trình tổ chức thi hành pháp luật; (iii) các quy định pháp luật làm tăng chi phí tuân thủ không cần thiết hoặc những quy định cản trở những vấn đề mới, xu hướng mới phục vụ tăng trưởng kinh tế.
Thứ trưởng khẳng định các nội dung của dự thảo Nghị quyết là những vấn đề phức tạp, cần được nghiên cứu kỹ lưỡng. Chính vì vậy, Thứ trưởng đề nghị Vụ Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tiếp thu đầy đủ các ý kiến đóng góp tại buổi làm việc để tiếp tục hoàn thiện dự thảo Nghị quyết bảo đảm chất lượng, hiệu lực và tính khả thi./.