
![]() |
Toàn cảnh phiên họp. |
Báo cáo tại phiên họp, đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo cho biết, thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác xây dựng pháp luật. Hệ thống pháp luật nước ta từng bước được hoàn thiện theo hướng đồng bộ, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận, cơ bản bao quát đầy đủ các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo nền tảng pháp lý quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế của đất nước. Tuy nhiên, thể chế, pháp luật vẫn là “điểm nghẽn của điểm nghẽn”, trở thành lực cản đối với yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Hệ thống pháp luật chưa đủ linh hoạt để tháo gỡ các vướng mắc từ thực tiễn. Tư duy xây dựng pháp luật chậm đổi mới, không theo kịp với sự thay đổi nhanh chóng trong tình hình mới. Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế hóa kịp thời, đầy đủ. Chất lượng pháp luật chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn. Vẫn còn quy định chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu rõ ràng, cản trở việc thực thi, không thuận lợi cho việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút và khơi thông nguồn lực đầu tư trong và ngoài nước. Việc phân quyền, phân cấp chưa triệt để, thủ tục hành chính còn rườm rà. Chậm nghiên cứu, ban hành chính sách, pháp luật điều chỉnh đối với những vấn đề mới phát sinh, chưa tạo khung khổ pháp lý thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 đã có các quy định cụ thể về việc rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, đề xuất sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật khi phát hiện các khó khăn, vướng mắc; đồng thời, quy định cơ chế sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản trong trường hợp cấp bách để giải quyết vấn đề phát sinh trong thực tiễn có thể thực hiện theo trình tự, thủ tục rút gọn hoặc trình tự, thủ tục đặc biệt khi được sự đồng ý của cấp có thẩm quyền. Tuy nhiên, các quy định này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết khó khăn, vướng mắc phát sinh nhanh, cấp bách từ thực tiễn, đặc biệt là trong một số lĩnh vực quan trọng để phát triển kinh tế và tăng trưởng như đầu tư công, xây dựng, đất đai, môi trường, tài chính, ngân sách…; khi có sự chồng chéo, xung đột pháp luật hoặc khi chưa có quy định hoặc quy định không rõ ràng.
![]() |
Đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo phát biểu tại phiên họp. |
Hiện nay, các bộ, cơ quan ngang bộ và địa phương thường xuyên phản ánh về tình trạng vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật, không có căn cứ pháp lý để giải quyết dẫn đến đình trệ công việc. Mặc dù, Chính phủ đã có nhiều biện pháp nhằm tháo gỡ những tồn tại, hạn chế nêu trên, tuy nhiên chỉ giới hạn trong việc xử lý các văn bản thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Đối với các vướng mắc do quy định của luật, nghị quyết, pháp lệnh thuộc thẩm quyền của Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi hoặc cho phép áp dụng cơ chế đặc biệt nên việc ban hành Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật là hết sức cần thiết nhằm thiết lập cơ chế chính thức để xử lý các vướng mắc “không thể hoặc chưa thể” sửa bằng quy trình xây dựng pháp luật thông thường theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Dự thảo Nghị quyết được bố cục gồm 07 Điều với các nội dung sau: (i) Điều 1 quy định về phạm vi điều chỉnh; (ii) Điều 2 quy định cụ thể các tiêu chí xác định khó khăn, vướng mắc do quy định pháp luật, làm cơ sở để sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật, từ đó tháo gỡ những điểm nghẽn về pháp luật đang cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; (iii) Điều 3 quy định về các nguyên tắc khi xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật. Các nguyên tắc này đóng vai trò định hướng cho quá trình sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc, tránh tình trạng xử lý tùy tiện, chồng chéo, gây khó khăn trong thực thi; đồng thời, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp, cũng như giảm thiểu rủi ro và chi phí tuân thủ; (iv) Điều 4 quy định về các phương án xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật; (v) Điều 5 quy định quy trình xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật; (vi) Điều 6 quy định trách nhiệm tổ chức thực hiện Nghị quyết đối với các cơ quan; (vii) Điều 7 quy định về điều khoản thi hành.
Trao đổi tại phiên họp, các đại biểu cơ bản nhất trí về sự cần thiết ban hành Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, các đại biểu đưa ra một số góp ý để hoàn thiện dự thảo Nghị quyết, cụ thể như sau: (i) Cần bổ sung kết quả rà soát khó khăn, vướng mắc tại dự thảo Tờ trình và bổ sung Phụ lục của Tờ trình để giúp các bộ, ngành, địa phương xác định rõ các nội dung khó khăn, vướng mắc được đề xuất nhằm xử lý và tiếp tục thực hiện rà soát các văn bản quy phạm pháp luật triệt để chủ trì xây dựng, tránh lãng phí thời gian và nguồn lực; (ii) Cần quy định rõ là “hội nhập quốc tế” thay vì "hội nhập" như tại khoản 3 Điều 2 dự thảo Nghị quyết (vì có thể dẫn đến cách hiểu là “hội nhập kinh tế quốc tế” do nằm ngay sau cụm từ “thúc đẩy tăng trưởng kinh tế”) để tạo điều kiện thuận lợi cho các bộ, ngành, địa phương trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới trong trường hợp cần thiết; (iii) Về khoản 4 Điều 3 dự thảo Nghị quyết, cần cân nhắc đưa nguyên tắc “Không trái với các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” thành nguyên tắc thứ 2 sau nguyên tắc “Thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng”, phù hợp với thứ tự các nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định tại Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Đồng thời, tại khoản 2 Điều 5, để bảo đảm thực hiện nguyên tắc này thì trong hồ sơ dự thảo Nghị quyết cần bao gồm nội dung đánh giá mức độ tương thích của dự thảo Nghị quyết với các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên; (iv) Về khoản 2 Điều 2 dự thảo Nghị quyết quy định quá rộng, vì vậy, cần phải khoanh vùng phạm vi; (v) Về khoản 1 Điều 4 dự thảo Nghị quyết cần ghi rõ các khó khăn, vướng mắc, vì vậy, cần phải chỉnh lý theo hướng ưu tiên sửa đổi các luật để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc để đảm bảo tính đồng bộ; (vi) Về Điều 5 dự thảo Nghị quyết, cần cân nhắc bổ sung thêm bước cơ quan chủ trì soạn thảo xin ý kiến các đối tượng chịu tác động trước khi gửi Hội đồng thẩm định độc lập để thẩm định nhằm hạn chế tối đa trường hợp văn bản nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc lại tiếp tục tạo ra những khó khăn, vướng mắc mới cho các đối tượng áp dụng.
![]() |
Đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp phát biểu kết luận phiên họp. |
Kết luận phiên họp, đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp ghi nhận và đánh giá cao nỗ lực của cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc kịp thời xây dựng dự thảo Nghị quyết trong thời gian ngắn và đây là văn bản có tính chất phức tạp, yêu cầu kỹ thuật lập pháp cao, liên quan đến việc xây dựng cơ chế đặc thù để xử lý các khó khăn, vướng mắc mà pháp luật hiện hành chưa thể giải quyết.
Thứ trưởng nhấn mạnh việc áp dụng quy định, quy trình đặc thù là vấn đề hệ trọng, không thể chỉ dựa trên việc phân cấp, phân quyền hay đơn giản hóa thủ tục hành chính mà phải được đặt trên cơ sở đánh giá đúng bản chất và mức độ nghiêm trọng của các khó khăn, vướng mắc. Vì vậy, Thứ trưởng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cần quy định rõ các tiêu chí xác định các vướng mắc gây ách tắc, kìm hãm sự phát triển, không có căn cứ pháp lý để xử lý theo quy định hiện hành và buộc phải xử lý bằng cơ chế đặc thù được thiết lập thông qua Nghị quyết này.
Bên cạnh đó, Thứ trưởng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp thu các ý kiến góp ý của các thành viên Hội đồng thẩm định, bổ sung các quy định cụ thể về quy chế hoạt động, trách nhiệm của Hội đồng thẩm định độc lập; đồng thời cần quy định rõ ràng về thời hạn và các điều kiện áp dụng cơ chế này./.