
![]() |
Toàn cảnh phiên họp. |
Tại phiên họp thẩm định, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Hoàng Minh Sơn cho biết, Luật Giáo dục đại học năm 2012 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018 đã tạo hành lang pháp lý nhằm mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học, từng bước nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu nhân lực của nền kinh tế, thúc đẩy cạnh tranh và phát huy nguồn lực xã hội hóa giáo dục.
Tuy nhiên, sau hơn 13 năm thực hiện Luật Giáo dục đại học năm 2012 và 06 năm áp dụng Luật Giáo dục đại học năm 2018, bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai thi hành Luật vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ nhận thức, năng lực tổ chức thực hiện còn hạn chế, trong khi Luật có nhiều chính sách và quy định mới. Hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học chưa được hoàn thiện, một số nội dung trong Luật còn bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn và chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh mới của đất nước.
![]() |
Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Hoàng Minh Sơn phát biểu tại phiên họp. |
Trên cơ sở đó, việc sửa đổi Luật Giáo dục đại học là cần thiết nhằm thể chế hóa đầy đủ các chủ trương lớn của Đảng và Chính phủ trong những năm gần đây. Đồng thời, Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) sẽ tạo cơ sở pháp lý để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi Luật hiện hành; khắc phục các hạn chế về chất lượng đào tạo, quản trị đại học, tự chủ tài chính, chuyển đổi số và hợp tác quốc tế. Qua đó, góp phần hiện đại hóa giáo dục đại học, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy phát triển bền vững và đưa giáo dục Việt Nam trở thành trung tâm tri thức và khoa học công nghệ trong kỷ nguyên phát triển mạnh mẽ của dân tộc.
Vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện nghiên cứu xây dựng chính sách gắn với sự cần thiết phải sửa đổi Luật Giáo dục đại học; đánh giá sự cần thiết của chính sách, mức độ phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; tính hợp hiến, hợp pháp, tính tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan; trình tự và thủ tục hành chính sẽ được cắt giảm; việc phân cấp, phân quyền, bình đẳng giới và khả năng thực thi của từng chính sách. Cụ thể:
Chính sách 1: Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, kiến tạo hệ thống quản trị đại học tiên tiến.
Mục tiêu của chính sách: Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục đại học; xây dựng hệ thống quản trị đại học tiên tiến; nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới. Thiết lập khuôn khổ pháp lý minh bạch, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, đặc biệt tại các cơ sở giáo dục đại học công lập.
Chính sách 2: Hiện đại hóa chương trình và phương thức tổ chức đào tạo, ứng dụng công nghệ tiên tiến và thúc đẩy học tập suốt đời.
Mục tiêu của chính sách: Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu thị trường lao động và yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh mới; gắn với phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đa dạng hóa phương thức tổ chức đào tạo, thúc đẩy ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số toàn diện; phát triển các mô hình giáo dục đại học số; mở rộng tiếp cận giáo dục đại học; thúc đẩy học tập suốt đời.
Chính sách 3: Định vị cơ sở giáo dục đại học là trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo gắn với đào tạo nhân lực chất lượng cao.
Mục tiêu của chính sách: Khẳng định vai trò của cơ sở giáo dục đại học trong hệ thống nghiên cứu khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia; thúc đẩy gắn kết giữa đào tạo - nghiên cứu - đổi mới sáng tạo - thị trường lao động; nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực trình độ cao; phát triển nhân tài, nâng cao năng lực nghiên cứu và hiệu quả đổi mới sáng tạo; huy động hiệu quả nguồn lực từ doanh nghiệp, nhà nước và quốc tế đầu tư cho nghiên cứu, phát triển và chuyển giao tri thức.
Chính sách 4: Tăng cường huy động các nguồn lực và nâng cao hiệu quả đầu tư hiện đại hóa giáo dục đại học.
Mục tiêu của chính sách: Tăng cường nguồn lực cho hiện đại hóa, phát triển đột phá giáo dục đại học; nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước; điều tiết và định hướng thị trường giáo dục đại học; mở rộng cơ hội tiếp cận cho người học; đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Chính sách 5: Phát triển đội ngũ giảng viên, nhà khoa học xuất sắc và môi trường học thuật sáng tạo, liêm chính.
Mục tiêu của chính sách: Phát triển đội ngũ giảng viên, nhà khoa học có năng lực chuyên môn cao, trình độ quốc tế, đủ sức dẫn dắt đổi mới sáng tạo; nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu; có cơ chế đãi ngộ tương xứng; thu hút, sử dụng và trọng dụng nhân tài; xây dựng môi trường và văn hóa học thuật khuyến khích phát huy tài năng và sở trường.
Chính sách 6: Đổi mới cách tiếp cận, bảo đảm thực chất trong công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học.
Mục tiêu của chính sách: Nâng cao hiệu quả quản trị chất lượng giáo dục đại học; hình thành văn hóa chất lượng trong từng cá nhân, tổ chức; giảm chi phí, khắc phục bất cập; đưa hoạt động đánh giá, kiểm định chất lượng đi vào thực chất; hỗ trợ cơ sở giáo dục đại học cải tiến và nâng cao hiệu quả hoạt động.
![]() |
![]() |
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đặng Hoàng Oanh phát biểu kết luận phiên họp. |
Kết luận phiên họp thẩm định, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đặng Hoàng Oanh đánh giá cao trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc xây dựng hồ sơ chính sách của dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi). Hồ sơ chính sách cơ bản đã bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính hợp lý, tính khả thi và tính thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành.
Bên cạnh đó, Thứ trưởng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cần tiếp tục rà soát, làm rõ hơn nội hàm của từng chính sách, cụ thể hóa từng nội dung và nhấn mạnh hơn nữa các giải pháp thực hiện chính sách.
Về chính sách có nội dung tăng cường tự chủ, nâng cao năng lực quản trị của các cơ sở giáo dục đại học và hiệu lực quản lý nhà nước, Thứ trưởng đề nghị cần làm rõ hơn quy định về việc thực hiện quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học. Về các giải pháp thực hiện chính sách, Thứ trưởng đề nghị cân nhắc phương án bổ sung định danh cơ sở giáo dục đại học vào quy định chính thức; đồng thời cần làm rõ hơn về mục đích, ý nghĩa của việc định danh trong công tác quản lý hiệu quả hoạt động giáo dục đại học./.