Thứ ba 17/06/2025 12:18
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Trách nhiệm của chấp hành viên trong thi hành án hành chính

Với ý nghĩa đó, hoạt động thi hành án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện nguyên tắc hiến định: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”[1]. Hoạt động thi hành án kém hiệu quả sẽ làm vô hiệu hóa toàn bộ hoạt động của các cơ quan tố tụng ở giai đoạn trước, gây tổn hại đến trật tự, kỷ cương làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào tính nghiêm minh của pháp luật. Vì vậy, thi hành án nói chung, thi hành án hành chính nói riêng có vai trò quan trọng, góp phần bảo đảm cơ chế, bảo vệ hiệu quả các quyền của công dân, bảo đảm nguyên tắc pháp quyền.

Tại Việt Nam, thi hành án hành chính là một nhiệm vụ phức tạp, được đặt ra chính thức từ khi có Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996, được quy định cụ thể, đầy đủ hơn và bổ sung quyền hạn đôn đốc thi hành án hành chính của cơ quan thi hành án dân sự tại Luật Tố tụng hành chính năm 2010. Sau 05 năm thực hiện và trên cơ sở tổng kết thi hành Luật Tố tụng hành chính năm 2010, ngày 25/11/2015, Quốc hội thông qua Luật Tố tụng hành chính năm 2015, trong đó cũng dành riêng một chương - Chương XIX gồm 07 điều quy định về trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính. Triển khai thi hành Luật này, Chính phủ ban hành Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 quy định về trình tự, thủ tục, thời hạn thi hành án hành chính và xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án (Nghị định số 71/2016/NĐ-CP).


Luật Tố tụng hành chính năm 2015 bỏ thủ tục đôn đốc thi hành án hành chính vốn gây nhiều bức xúc trong thời gian qua và thay thế bằng cơ chế chủ động thi hành án với việc tự nguyện thi hành của người phải thi hành án và thẩm quyền ban hành quyết định buộc thi hành án của Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án đó. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành án hành chính tại Việt Nam qua một năm kể từ ngày Luật Tố tụng hành chính 2015 có hiệu lực thi hành đến nay vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc, trong đó có nội dung về đội ngũ chấp hành viên làm công tác thi hành án hành chính. Pháp luật hiện hành quy định chấp hành viên thi hành án dân sự là một chức danh tư pháp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm theo quy trình, thủ tục nhất định khi đáp ứng đầy đủ các yêu cầu, tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của pháp luật; được Nhà nước giao nhiệm vụ tổ chức thi hành hoặc trực tiếp thi hành các bản án, quyết định theo quy định của pháp luật; được sử dụng quyền lực nhà nước để tổ chức thi hành án dân sự và thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính. Tuy nhiên, thực tế nhiều trường hợp bản án, quyết định của Tòa án chỉ tuyên xử công nhận, hủy bỏ hoặc sửa một phần quyết định của cơ quan hành chính, không tuyên rõ về phần nghĩa vụ tài sản như quyết định hành chính đã ban hành của cơ quan hành chính nhà nước. Trong những trường hợp như vậy, trách nhiệm của chấp hành viên không được quy định rõ ràng và được đánh giá là khá mờ nhạt trong hoạt động tổ chức thi hành án. Cơ quan thi hành án dân sự vốn dĩ lúc nào cũng trong tình trạng quá tải về công việc, nay thêm nhiệm vụ thi hành án hành chính nhưng cơ chế lại thiếu rõ ràng, nên cơ quan này thực tế vẫn chủ yếu tập trung vào nhiệm vụ chính của mình là thi hành án dân sự và thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính.

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả đề cập đến trách nhiệm của đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự trong tổ chức thi hành án hành chính đối với những trường hợp bản án, quyết định của Tòa án tuyên xử công nhận, hủy bỏ hoặc sửa một phần quyết định của cơ quan hành chính, cụ thể như sau:

(i) Sau khi nhận được bản án, quyết định của Toà án, cơ quan thi hành án dân sự phân công chấp hành viên thực hiện theo dõi việc thi hành án hành chính. Chấp hành viên sau khi được phân công có trách nhiệm lập hồ sơ theo dõi; cập nhật và bổ sung đầy đủ các tài liệu vào hồ sơ vụ việc.

Hồ sơ gồm: Bản án, quyết định của Tòa án; văn bản thông báo về việc tự nguyện thi hành án; thông báo kết quả thi hành án hành chính; quyết định buộc thi hành án hành chính (nếu có); các văn bản chỉ đạo của người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án (nếu có); quyết định xử lý do chậm thi hành án, không chấp hành, chấp hành không đúng hoặc không đầy đủ nội dung bản án, quyết định của Tòa án (nếu có); các tài liệu khác có liên quan.

Hồ sơ thi hành án hành chính phải thể hiện toàn bộ quá trình theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thi hành án hành chính và được lưu trữ theo quy định của pháp luật về lưu trữ hiện hành.

(ii) Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định buộc thi hành án hành chính, chấp hành viên được phân công theo dõi việc thi hành án phải làm việc với người phải thi hành án để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định của Tòa án. Nội dung làm việc phải được lập thành biên bản.

(iii) Chấp hành viên chứng kiến và ký tên vào biên bản trong trường hợp cơ quan, tổ chức đã ban hành quyết định kỷ luật buộc thôi việc tiếp nhận người bị buộc thôi việc trở lại làm việc hoặc cơ quan, tổ chức chấm dứt thực hiện hành vi hành chính trái pháp luật; sửa đổi, bổ sung danh sách cử tri hay thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời.

(iv) Trường hợp có căn cứ xác định việc người phải thi hành án chậm thi hành án, không chấp hành hoặc chấp hành không đúng hoặc không đầy đủ nội dung bản án, quyết định của Tòa án, chấp hành viên thực hiện (trường hợp chấp hành viên đồng thời là Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự) hoặc tham mưu Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có văn bản kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý trách nhiệm đối với người phải thi hành án.

(v) Chấp hành viên thực hiện (trường hợp chấp hành viên đồng thời là Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự) hoặc tham mưu Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự yêu cầu Tòa án đã ra bản án, quyết định giải thích bằng văn bản những điểm chưa rõ, đính chính sai sót trong bản án, quyết định để thi hành; kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định theo quy định của pháp luật.

(vi) Trường hợp vụ việc đã có Quyết định buộc thi hành án hành chính của Tòa án, chấp hành viên tham mưu cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền tổ chức đăng tải công khai Quyết định buộc thi hành án hành chính trên Trang thông tin điện tử của Cục Thi hành án dân sự đối với các vụ việc thuộc thẩm quyền theo dõi của Cục Thi hành án dân sự và các Chi cục Thi hành án dân sự trực thuộc, đồng thời đề nghị tích hợp trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp và Cổng thông tin điện tử Chính phủ đối với các vụ việc người phải thi hành án là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ[2].

(vii) Ngoài ra, trong từng trường hợp thi hành án hành chính cụ thể, Chấp hành viên thực hiện hoặc tham mưu cho cơ quan thi hành án dân sự thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Nghị định số 71/2016/NĐ-CP.

Để đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự có thể thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong công tác thi hành án hành chính thì ngoài những phấn đấu trong công tác của bản thân chấp hành viên về phía cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền cũng cần phải làm tốt những công tác sau:

Thứ nhất, củng cố, kiện toàn về tổ chức bộ máy, biên chế, nâng cao năng lực, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm cho đội ngũ chấp hành viên làm công tác thi hành án hành chính tại các cơ quan ở Trung ương và địa phương trên cơ sở các quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 và Nghị định số 71/2016/NĐ-CP.

Thứ hai, thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác thi hành án hành chính nhằm thống nhất việc áp dụng pháp luật tại các cơ quan thi hành án dân sự địa phương trong cả nước; kịp thời tháo gỡ vướng mắc, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm, góp phần đảm bảo chấp hành đúng pháp luật và hoàn thành tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ về thi hành án hành chính.

Thứ ba, tăng cường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị có liên quan triển khai thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả Luật Tố tụng hành chính năm 2015 và Nghị định số 71/2016/NĐ-CP về công tác thi hành án hành chính, đặc biệt là công tác phối hợp liên ngành từ Trung ương đến địa phương; nên sớm xây dựng quy chế phối hợp liên ngành trong công tác thi hành án hành chính.

Trên đây chỉ là những giải pháp mang tính tạm thời trong việc nâng cao trách nhiệm của đội ngũ chấp hành viên trong thi hành án hành chính, thiết nghĩ về lâu dài chúng ta cần có một Luật Thi hành án hành chính riêng bên cạnh Luật Tố tụng hành chính. Quy định về thi hành án hành chính bằng một văn bản luật riêng sẽ đảm bảo được tính đồng bộ và nâng cao trách nhiệm của các chủ thể có liên quan trong quá trình tổ chức thực hiện, đặc biệt là đội ngũ chấp hành viên, vì thực tế trong lĩnh vực thi hành án dân sự và thi hành án hình sự đều đã có luật thi hành án riêng biệt. Và xa hơn, nên xem xét xây dựng một Bộ luật về thi hành án dành cho tất cả các lĩnh vực dù biết đây là một nhiệm vụ khó khăn đối với công tác lập pháp tại Việt Nam hiện nay.

Nguyễn Thị Phương Hà

Khoa Luật, Đại học Đà Lạt

Tài liệu tham khảo:

[1]. Điều 106 Hiến pháp năm 2013.

[2]. Khoản 1 Điều 30 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định thời hạn, trình tự, thủ tục thi hành án hành chính và xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm