Trong cuốn sách “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Văn hóa là hồn cốt của dân tộc”[1]. Hiện nay, để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, việc tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện tư tưởng văn hóa là hồn cốt của dân tộc có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cấp thiết.
1. Nội hàm tư tưởng văn hóa là hồn cốt của dân tộc
Văn hóa là một phạm trù rất rộng, có thể được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau với nhiều cách tiếp cận khác nhau, rất phong phú, đa dạng. Tựu chung lại, khi nói đến văn hóa “là nói đến những gì là tinh hoa, tinh túy nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình, tiến bộ”[2]. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc. Xét về bản chất, tư tưởng văn hóa là hồn cốt của dân tộc khẳng định vị trí, vai trò, giá trị của văn hóa, đề cao tâm hồn, cốt cách, bản lĩnh Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh to lớn của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước: “Việt Nam là một đất nước với mấy nghìn năm lịch sử, trải qua không biết bao nhiêu sự biến đổi, thăng trầm do thiên nhiên và con người gây ra, đã tích lũy, tạo ra và phát huy được nhiều giá trị, bản sắc văn hóa riêng của dân tộc, làm nên hồn cốt của dân tộc”[3].
Văn hóa là hồn cốt của dân tộc đã khái quát bài học kinh nghiệm lịch sử của dân tộc trong suốt quá trình dựng nước, giữ nước và được tiếp tục kế thừa, phát huy trong thời đại Hồ Chí Minh để thực hiện khát vọng xây dựng một nước Việt Nam “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã xây dựng nên một nền văn hóa đặc sắc, kết tinh quá trình lao động sáng tạo, đấu tranh chống thiên tai, địch họa, mang đậm tâm hồn, cốt cách dân tộc, thể hiện sâu sắc trình độ, nghệ thuật ứng xử với tự nhiên và xã hội. Văn hóa luôn là một dòng chảy liên tục, không ngừng nghỉ qua những thăng trầm lịch sử của dân tộc, là những giá trị vật chất, tinh thần mà dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong lịch sử. Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chính là “hồn cốt” của dân tộc, là “sức mạnh nội sinh”, trở thành nền tảng tinh thần, động lực và nguồn lực để xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Khẳng định văn hóa là hồn cốt của dân tộc vừa là khát vọng, đồng thời, là nhiệm vụ chính trị cấp thiết, là khâu đột phá có ý nghĩa chiến lược để đẩy mạnh quá trình phát triển nhanh và bền vững văn hóa trong thời kỳ mới. Nội hàm văn hóa là hồn cốt của dân tộc có thể khái quát trên một số nội dung cốt lõi sau đây:
Thứ nhất, văn hóa Việt Nam chứa đựng tâm hồn, khí phách, bản lĩnh của dân tộc. Văn hóa là gốc, là hồn cốt của dân tộc. Đó là những giá trị gốc, căn bản, tiêu biểu nhất, bản chất nhất, được hình thành và phát triển suốt quá trình phát triển đất nước, là nền tảng mang tính trường tồn, bền vững, mang tính dân tộc Việt Nam sâu sắc. Văn hóa là rường cột đối với sự tồn tại, phát triển bền vững của quốc gia, dân tộc, như lời chỉ bảo ngắn gọn mà sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”[4]. Văn hóa kết tinh những tinh hoa của thế hệ đi trước để lại, góp phần tạo nên vị thế, bản sắc riêng, đặc trưng của dân tộc. Văn hóa Việt Nam được thường xuyên hun đúc, bổ sung và lan tỏa trong lịch sử dân tộc, trở thành tài sản tinh thần vô giá, tạo nên sức mạnh gắn kết cộng đồng dân tộc. Bản chất của văn hóa Việt Nam là sự sáng tạo vươn lên các giá trị chân - thiện - mỹ cao đẹp, tạo nên tinh thần nhân văn cho con người, đem hạnh phúc đến cho mỗi người và toàn dân tộc. Trong thế giới hội nhập và thời đại toàn cầu hóa hiện nay, văn hóa là “tấm thẻ căn cước” định vị lịch sử tồn tại và phát triển của mỗi dân tộc: “Văn hóa… nói lên bản sắc của dân tộc. Văn hóa còn thì dân tộc còn”[5]. Đồng thời, văn hóa Việt Nam là không gian tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, bầu không khí tinh thần, khí thế của đông đảo quần chúng nhân dân và của cộng đồng dân tộc, hệ tư tưởng, tình cảm, niềm tin, khát vọng của con người, các quan niệm đạo lý, pháp lý… Những giá trị đó phản ánh “lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”[6]. Văn hóa thấm sâu vào mọi hoạt động vật chất, tinh thần, phong tục, tập quán, sinh hoạt cá nhân, mang diện mạo, trí tuệ, tâm hồn, phong cách của dân tộc, của đất nước và được tiếp nối, phát huy, phát triển trong các thời kỳ lịch sử. Tự hào về văn hóa dân tộc, luôn luôn chăm lo, vun đắp để kế thừa, phát triển văn hóa dân tộc trở thành một yêu cầu khách quan để xây dựng và bảo vệ đất nước. Mối quan hệ giữa văn hóa với dân tộc trở thành mối quan hệ gắn bó hữu cơ, mật thiết không thể tách rời.
Thứ hai, văn hóa Việt Nam phản ánh cốt cách, diện mạo, sắc thái của dân tộc. Văn hóa Việt Nam biểu hiện sức sống, sức sáng tạo, sức mạnh tiềm tàng của dân tộc; đồng thời, là cốt cách, vị thế, tầm vóc của cả đất nước. Văn hóa Việt Nam hình thành nên những giá trị văn hóa cao đẹp, bền vững: Yêu nước, đoàn kết, cần cù, dũng cảm, tài trí, lạc quan, hiếu học, nghĩa tình, hòa hiếu, khoan dung… Dòng chảy văn hóa Việt Nam (truyền thống và hiện đại, hữu hình và vô hình) là cơ sở nền tảng về đạo đức và cảm xúc, niềm tin và ước mơ, ý chí và khát vọng có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành động, hành vi xã hội của mỗi con người Việt Nam. Đây là những giá trị vật chất, tinh thần tinh túy nhất, cô đọng nhất, bền vững nhất, là sắc thái cội nguồn, riêng biệt của dân tộc: Văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, nhân cách con người, nâng cao bản lĩnh và ý thức dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc... “hội nhập mà không hòa tan”[7]. Khi được hình thành, văn hóa có tính bền vững, có sức lan tỏa và định hướng, đánh giá và điều chỉnh hành vi của xã hội. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường để dựng nước và giữ nước, đồng thời, tiếp thu thành tựu của văn hóa nhân loại, cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã hình thành nên nền văn hóa Việt Nam với những giá trị độc đáo, phong phú, thống nhất trong đa dạng. Văn hóa Việt Nam là sự hòa quyện, kết tinh giữa bản sắc văn hóa các dân tộc; ngày càng phát triển mạnh mẽ, gắn với mọi mặt của đời sống, hướng tới phục vụ nhu cầu chính đáng của nhân dân; được bảo tồn, phát huy; từng bước trở thành động lực, nguồn lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Giá trị văn hóa cũng chính là giá trị cốt lõi của dân tộc. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam trước hết được thể hiện ở sức mạnh của văn hóa, sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc, tạo nên sự thống nhất về lý trí và tình cảm trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Tiếp tục đẩy mạnh quán triệt, triển khai tư tưởng văn hóa là hồn cốt của dân tộc để văn hóa thực sự là sức mạnh nội sinh phát triển bền vững đất nước hiện nay
Sau gần 40 năm đổi mới đất nước, việc xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam đạt được những kết quả quan trọng. Nhận thức về văn hóa ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn trên các lĩnh vực, các loại hình; các sản phẩm văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới, nhiều mặt của xã hội. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. “Văn hóa trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả, tích cực. Công nghiệp văn hóa và thị trường văn hóa có bước khởi sắc. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế có bước phát triển mới. Xây dựng con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội”[8]. Việc đấu tranh, phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây tác hại đến văn hóa, lối sống được chú trọng. Nhiều tấm gương sáng trong phong trào thi đua yêu nước, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã được biểu dương, lan tỏa vào đời sống xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa nói riêng, xây dựng và phát triển đất nước nói chung.
Tuy nhiên, qua gần 40 năm đổi mới, việc xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam còn không ít hạn chế, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Văn hóa chưa được các cấp, các ngành nhận thức một cách sâu sắc và chưa được quan tâm một cách đầy đủ tương xứng với kinh tế và chính trị; chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng nặng về chức năng giải trí. Phát triển các lĩnh vực văn hóa chưa đồng bộ, còn phiến diện, nặng về hình thức, chưa đi vào chiều sâu, thực chất, thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật lớn, tầm cỡ, phản ánh được tầm vóc của sự nghiệp đổi mới. Môi trường văn hóa vẫn bị “ô nhiễm” bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực. Sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các miền còn lớn. Đời sống văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo còn không ít khó khăn. Nhiều di sản văn hóa quý báu của dân tộc có nguy cơ bị xuống cấp, mai một, thậm chí bị tiêu vong[9]. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa còn lúng túng, chậm trễ. Đầu tư cho văn hóa chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao… Chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hóa chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển văn hóa trong thời kỳ mới. “Công tác giới thiệu, quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài chưa mạnh; tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại còn hạn chế; chưa coi trọng đúng mức và có biện pháp tích cực để giữ gìn, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp, đặc sắc của dân tộc; nhiều khi bắt chước nước ngoài một cách nhố nhăng, phản cảm, không có chọn lọc”[10].
Đây là thời điểm quan trọng để định hướng con đường phát triển văn hóa - đó không chỉ là sự phù hợp với truyền thống văn hóa, là tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, mà còn phải đáp ứng các yêu cầu phát triển của thời đại mới, xứng đáng với tầm vóc, vị thế văn hóa là hồn cốt của dân tộc. Văn hóa cần được nhận thức toàn diện, thấu đáo, được đề cao, được tạo điều kiện thuận lợi để triển khai trong mối quan hệ tổng thể, hài hòa với các lĩnh vực chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới.
3. Một số giải pháp cơ bản phát triển văn hóa thực sự là sức mạnh nội sinh phát triển bền vững đất nước
Để tiếp tục đẩy mạnh quán triệt, triển khai tư tưởng văn hóa là hồn cốt của dân tộc, để văn hóa thực sự là sức mạnh nội sinh phát triển bền vững đất nước hiện nay, cần tập trung thực hiện một cách quyết liệt và có hiệu quả một số giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức và năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xác định rõ xây dựng và phát triển văn hóa, con người là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị: “Gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát huy nhân tố con người, lấy nhân dân làm trung tâm; phát huy vai trò của văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển”[11]. Chú trọng tính đặc thù của văn hóa, vừa bảo đảm để văn hóa, văn học, nghệ thuật phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm tự do sáng tạo của cá nhân trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn, trên tinh thần “phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”[12]. Khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo. Định kỳ kiểm tra, giám sát việc thể chế hóa chủ trương của Đảng đối với cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về xây dựng và phát triển văn hóa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Đẩy nhanh việc cụ thể hóa chủ trương, quan điểm của Đảng thành chương trình, đề án cụ thể, sát thực tiễn: “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”[13]. Rà soát, hoàn thiện các văn bản pháp luật, quản lý hiện hành có liên quan, đổi đổi mới cách thức tiếp cận và tư duy quản lý từ “làm văn hóa” sang “quản lý nhà nước về văn hóa”. Tích cực đổi mới phương thức lãnh đạo và quản lý đối với sự nghiệp phát triển văn hóa, xác định rõ những chiến lược và giải pháp lãnh đạo, quản lý phù hợp với từng đối tượng, lĩnh vực và địa bàn cụ thể. “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”[14]. Lấy văn hóa làm điểm tựa cho các chính sách kinh tế - xã hội, làm tư tưởng xuyên suốt các chính sách đối ngoại, ngoại giao.
Hai là, xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hóa tương xứng với yêu cầu và nhiệm vụ phát triển văn hóa trong giai đoạn mới.
Chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ làm công tác văn hóa, văn học, nghệ thuật. Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa. Coi trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, cán bộ làm công tác khoa học, chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở: “Xây dựng chính sách đào tạo và sử dụng cán bộ văn hóa, văn nghệ, khoa học, phù hợp, có trình độ chuyên môn, năng lực, phẩm chất ở tất cả các cấp quản lý”[15]. Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giảng dạy các chuyên ngành văn hóa. Tập trung nâng cao đời sống văn hóa ở cơ sở, tăng cường xây dựng và phát triển văn hóa đỉnh cao, phấn đấu có nhiều tài năng lớn ở các loại hình văn hóa, nghệ thuật, có những tác phẩm tầm cỡ, phản ánh sâu sắc hiện thực đổi mới của đất nước, có ý nghĩa tích cực trong xây dựng nền văn hóa và con người mới.
Chủ động rà soát, kiện toàn tổ chức, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị thuộc ngành văn hóa theo hướng tinh, gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao năng lực cán bộ các cấp, kiện toàn bộ máy nhân sự tinh, gọn, phát huy vai trò, trí tuệ của tập thể gắn với đề cao trách nhiệm cá nhân, khơi dậy khát vọng cống hiến của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành văn hóa. Xây dựng quy tắc ứng xử chung của nghệ sĩ, góp phần tạo môi trường văn hóa lành mạnh, thúc đẩy công nghiệp văn hóa phát triển, phát huy các giá trị văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước. Quan tâm xây dựng các trường văn hóa, nghệ thuật, tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng và quy mô đào tạo: “Rà soát toàn bộ hệ thống các trường đào tạo cán bộ văn hóa, văn nghệ, đổi mới và hiện đại hóa quy trình, nội dung, phương thức đào tạo để trong 5 - 10 năm tới khắc phục về cơ bản sự thiếu hụt về đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa”[16]. Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; trọng dụng người có tài, có đức, tôn vinh tài năng và cống hiến cho sự phát triển văn hóa nước nhà.
Ba là, quan tâm bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại.
Đẩy mạnh đổi mới nội dung, hình thức các hoạt động tuyên truyền, quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về yêu cầu bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Tiếp tục rà soát văn bản, thể chế hóa các chủ trương của Đảng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của ngành văn hóa, hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý và phối hợp liên bộ, liên ngành trong xây dựng văn hóa, con người Việt Nam. Xử lý hài hòa giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa các dân tộc với các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch bền vững, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam. Phát triển đi đôi với giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Chú trọng thực hiện các chương trình phục hồi, bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một; giữ gìn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số, các giá trị văn hóa trong tôn giáo, tín ngưỡng. Chú trọng xây dựng và phát triển số hóa di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, phát triển dữ liệu lớn (big data) về giá trị di sản văn hóa Việt Nam, phát triển bảo tàng ảo để tăng cường quảng bá các giá trị di sản văn hóa.
Chú trọng hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và truyền bá văn hóa Việt Nam ra thế giới: “Chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc”[17]. Tạo điều kiện thuận lợi để người Việt Nam ở nước ngoài, các tổ chức quốc tế đầu tư trí tuệ, nguồn lực, tham gia phát triển văn hóa, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam. Tăng cường các chương trình dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam. Xây dựng một số trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài. Xây dựng cơ chế, chính sách phát triển văn hóa đối ngoại; hỗ trợ quảng bá nghệ thuật quốc gia và xuất khẩu các sản phẩm văn hóa ra nước ngoài. Chọn lọc, tiếp thu kinh nghiệm tốt, phù hợp của các nước trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa về văn hóa. Nắm bắt xu hướng phát triển văn hóa trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, ứng dụng thành tựu công nghệ số để chủ động đổi mới các hoạt động văn hóa đối ngoại, tăng cường tiềm lực phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng thương hiệu quốc gia và các trung tâm, thành phố sáng tạo.
Bốn là, chú trọng xây dựng văn hóa ứng xử lành mạnh trong xã hội, phát huy những giá trị tích cực về thuần phong, mỹ tục của gia đình và xã hội.
Đề cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết; trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo lý xã hội. Xây dựng các quy tắc ứng xử văn minh trong các cơ quan công quyền, trong cộng đồng, nhất là trên không gian mạng và trong giới văn nghệ sĩ. “Đề cao vai trò, trách nhiệm và các giá trị văn hóa tốt đẹp của gia đình trong việc nuôi dưỡng, giáo dục và bảo vệ thanh thiếu nhi, cùng với nhà trường giáo dục, hình thành nhân cách, đạo đức trong sáng và kỹ năng ứng xử xã hội văn minh. Xây dựng ý thức bảo vệ môi trường, gìn giữ, ứng xử đúng đắn với môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững đất nước”[18]. Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hóa trong công tác lãnh đạo, quản lý. Chú trọng xây dựng môi trường văn hóa công sở lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, nhân văn; đẩy lùi bệnh quan liêu, bè phái, mất đoàn kết, chủ nghĩa cơ hội và thực dụng.
“Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát huy hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới... Phát huy vai trò to lớn của văn học, nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, nhân cách, lối sống của con người... Quan tâm đến nhu cầu sáng tạo và thụ hưởng văn hóa chính đáng, lành mạnh của mỗi người dân và cả cộng đồng”[19]. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân và văn hóa trong kinh doanh. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, tiêu cực; chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Chú trọng thực hiện quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên. “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh”[20]. Chú trọng khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam.
Cuốn sách “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” với tư tưởng chủ đạo văn hóa là hồn cốt của dân tộc là kết tinh của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Tác phẩm đã nâng tầm lý luận về xây dựng và phát triển nền văn hóa; là cẩm nang quý báu giúp các cấp ủy, tổ chức đảng, các ngành, các cấp, cán bộ, đảng viên nắm vững và triển khai hiệu quả công tác xây dựng và phát triển văn hóa. Sự đồng tình hưởng ứng, tinh thần quyết tâm và sự vào cuộc nhanh chóng, đồng bộ, sáng tạo của các cấp, các ngành, các địa phương, cơ quan, đơn vị, đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ và các tầng lớp nhân dân là minh chứng rất thuyết phục về vai trò, những đóng góp quan trọng và rất đặc biệt của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc./.
Thiếu tá. ThS. Nguyễn Quang Bình
NCS. Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
Ảnh: internet
[1] Nguyễn Phú Trọng, Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2024, tr. 29.
[2] Nguyễn Phú Trọng, Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2024, tr. 30.
[3] Nguyễn Phú Trọng, Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2024, tr. 31 - 32.
[4] Hồ Chí Minh, Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, Hà Nội, ngày 24/11/1946.
[5] Nguyễn Phú Trọng, Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2024, tr. 29.
[6] Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 56.
[7] Nguyễn Phú Trọng, Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2024, tr. 246.
[8] Nguyễn Phú Trọng, Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2024, tr. 39 - 40.
[9] https://dangcongsan.vn/multimedia/mega-story/bai-1-tai-san-quy-gia-cua-dan-toc-666884.html, truy cập ngày 08/8/2024.
[10] Nguyễn Phú Trọng, Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2024, tr. 41.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 99.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 33 - 34.
[13] Nguyễn Phú Trọng, Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2024, tr. 47.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 330.
[15] Ban Chấp hành Trung ương, Báo cáo “Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc; xây dựng, phát triển văn hóa sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước; các định hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển văn hóa, con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng”, Hà Nội, ngày 22/11/2021.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 147.
[17] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr. 23.
[18] Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Kết luận số 76-KL/TW về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Hà Nội, ngày 04/6/2020.
[19] Ban Chấp hành Trung ương, Báo cáo “Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc; xây dựng, phát triển văn hóa sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước; các định hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển văn hóa, con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng”, Hà Nội, ngày 22/11/2021.
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 47.