Triển khai nội dung được giao tại khoản 5 Điều 33 Luật Phòng, chống ma túy năm 2021, ngày 24/3/2022, Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XV ban hành Pháp lệnh số 01/2022/UBTVQH15 quy định trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem xét, quyết định việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (Pháp lệnh số 01/2022/UBTVQH15). Triển khai Điều 106 Luật Xử lý vi phạm hành chính, ngày 13/12/2022, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 03/2022/UBTVQH15 quy định về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân (Pháp lệnh số 03/2022/UBTVQH15).
Trong thời gian qua, việc triển khai nội dung Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước cử trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong các trường hợp theo Pháp lệnh số 01/2022/UBTVQH15 và Pháp lệnh số 03/2022/UBTVQH15 vẫn còn có ý kiến “băn khoăn” về hình thức trợ giúp pháp lý. Chính vì vậy, bài viết này phân tích và làm rõ hình thức trợ giúp pháp lý khi thực hiện trợ giúp pháp lý cho người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi nghiện ma túy thuộc diện được trợ giúp pháp lý trong trình tự, thủ tục xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Pháp lệnh số 01/2022/UBTVQH15 và hình thức thực hiện trợ giúp pháp lý trong trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân theo quy định tại Pháp lệnh số 03/2022/UBTVQH15.
1. Nội dung có liên quan đến trợ giúp pháp lý theo Pháp lệnh số 01/2022/UBTVQH15 và Pháp lệnh số 03/2022/UBTVQH15
1.1. Nội dung có liên quan đến trợ giúp pháp lý theo Pháp lệnh số 01/2022/UBTVQH15
Pháp lệnh số 01/2022/UBTVQH15 quy định trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem xét, quyết định việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; trình tự, thủ tục xem xét, quyết định việc hoãn, miễn chấp hành, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành thời gian còn lại trong quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị trong việc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Tại khoản 5 Điều 2 Pháp lệnh số 01/2022/UBTVQH15, về nguyên tắc xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, người bị đề nghị, cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị đề nghị có quyền tự mình hoặc nhờ luật sư, người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị. Trường hợp người bị đề nghị không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì Tòa án yêu cầu đoàn luật sư phân công tổ chức hành nghề luật sư cử luật sư; Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước cử trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc không phải là biện pháp xử lý hành chính, thẩm quyền do Tòa án nhân dân cấp huyện quyết định (khoản 4 Điều 33 Luật Phòng, chống ma túy năm 2021), và chỉ xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật Phòng, chống ma túy. Những người thuộc các trường hợp này, nếu thuộc diện được trợ giúp pháp lý theo quy định Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 sẽ được cử người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong quá trình xem xét đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Cụ thể, có thể kể đến: Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi (thuộc diện trẻ em); người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là người thuộc hộ nghèo; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn hoặc người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thuộc các diện được trợ giúp pháp lý khác theo quy định Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
Tại điểm b khoản 1 và điểm a khoản 3 Điều 7 Pháp lệnh số 01/2022/UBTVQH15 đã quy định rõ chi phí cho luật sư, trợ giúp viên pháp lý là người bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị là một trong những chi phí trong việc xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiên bắt buộc và trường hợp Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước cử người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị đề nghị thì do Trung tâm này chi trả.
1.2. Nội dung có liên quan đến trợ giúp pháp lý theo Pháp lệnh số 03/2022/UBTVQH15
Một trong những nguyên tắc xem xét, quyết định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính là bảo đảm quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị xử lý hành chính, khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh số 03 quy định: “Người bị đề nghị thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý được đề nghị tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý. Trường hợp người bị đề nghị là người chưa thành niên mà không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì Tòa án yêu cầu tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cử trợ giúp viên pháp lý, luật sư theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý hoặc Đoàn luật sư phân công tổ chức hành nghề luật sư cử luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.
Người được trợ giúp pháp lý theo quy định Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 như: Người có công với cách mạng; trẻ em; người thuộc hộ nghèo; người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người thuộc một trong các trường hợp sau đây có khó khăn về tài chính (là người thuộc hộ cận nghèo hoặc người đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng): Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; người nhiễm chất độc da cam; người cao tuổi; người khuyết tật; nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011; người bị nhiễm HIV. Theo đó, Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước sẽ cử người thực hiện trợ giúp pháp lý cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý trong quá trình xem xét áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo quy định tại Pháp lệnh số 03/2022/UBTVQH15.
Tại Điều 7 Pháp lệnh số 03/2022/UBTVQH15 quy định về chi phí, lệ phí trong việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính, theo đó quy định trong việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính gồm: Chi phí cho người phiên dịch, người dịch thuật; chi phí cho luật sư, trợ giúp viên pháp lý là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị; chi phí giám định và các khoản chi phí khác theo quy định của pháp luật. Đồng thời, quy định trách nhiệm chi trả các chi phí trên, trong đó, chi phí cho luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý, trợ giúp viên pháp lý do tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cử thì thực hiện theo quy định pháp luật về trợ giúp pháp lý.
Điều 13 Pháp lệnh quy định về kiểm tra hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính có quy định về việc thẩm phán có văn bản yêu cầu tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cử trợ giúp viên pháp lý, luật sư trong trường hợp người bị đề nghị là người chưa thành niên quy định tại khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh này.
2. Hình thức trợ giúp pháp lý khi thực hiện trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý theo Pháp lệnh số 01/2022/UBTVQH15 và Pháp lệnh số 03/2022/UBTVQH15
Theo quy định tại Điều 27, Điều 31, Điều 320, Điều 33 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, các hình thức trợ giúp pháp lý bao gồm: Tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng. Trong quá trình triển khai nội dung Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước cử trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem xét, quyết định việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Pháp lệnh số 01/2022/UBTVQH15 và trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân tại Pháp lệnh số 03/2022/UBTVQH15 là hình thức trợ giúp pháp lý nào? Có hai luồng ý kiến: (i) Ý kiến thứ nhất cho rằng hình thức trợ giúp pháp lý là tham gia tố tụng; (ii) Ý kiến thứ hai cho rằng hình thức trợ giúp pháp lý là đại diện ngoài tố tụng.
Theo tác giả, trong vụ việc trợ giúp pháp lý hình thức trợ giúp pháp lý là gì phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng trước hết là yêu cầu của người được trợ giúp pháp lý. Nếu người được trợ giúp pháp lý yêu cầu tư vấn pháp luật thì người thực hiện trợ giúp pháp lý sẽ hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến tranh chấp, khiếu nại, vướng mắc pháp luật; hướng dẫn giúp các bên hòa giải, thương lượng, thống nhất hướng giải quyết vụ việc. Nếu người được trợ giúp pháp lý yêu cầu tham gia tố tụng thì người thực hiện trợ giúp pháp lý sẽ tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước người, cơ quan tiến hành tố tụng. Nếu người được trợ giúp pháp lý yêu cầu đại diện ngoài tố tụng thì người thực hiện trợ giúp pháp lý sẽ đại diện cho họ trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, trong trường hợp này cũng vậy, hình thức trợ giúp pháp lý phụ thuộc vào yêu cầu trợ giúp pháp lý của người được trợ giúp pháp lý. Như vậy, theo tác giả việc thực hiện trợ giúp pháp lý trong trình tự, thủ tục đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Pháp lệnh số 01/2022/UBTVQH15; trong trình tự xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân theo Pháp lệnh số 03/2022/UBTVQH15 có thể là hình thức tư vấn pháp luật hoặc đại diện ngoài tố tụng nếu người được trợ giúp pháp lý yêu cầu, ví dụ: Tư vấn pháp luật về các quy định pháp luật liên quan đến việc bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính hay tư vấn cho họ về các quy định điều kiện hoãn, miễn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành thời gian còn lại trong quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc…
Tiếp đến cần phải xem xét trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem xét, quyết định việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc bản chất là gì?
Việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc không phải là biện pháp xử lý hành chính. Thẩm quyền xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người bị đề nghị cư trú hoặc nơi có hành vi vi phạm trong trường hợp không xác định được nơi cư trú của người bị đề nghị. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét lại quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện bị khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị.
Về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định việc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được quy định tại Pháp lệnh số 01/2022/UBTVQH15 bao gồm các bước: Nhận, thụ lý hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thông báo về việc thụ lý hồ sơ, quyết định mở phiên họp xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và tổ chức phiên họp xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được tổ chức trực tiếp hoặc trực tuyến.
Thành phần phiên họp bao gồm: Người tiến hành phiên họp gồm có thẩm phán và thư ký phiên họp; người tham gia phiên họp gồm có Trưởng phòng Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc người được ủy quyền, kiểm sát viên, người bị đề nghị, cha mẹ hoặc người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị.
Trong thủ tục phiên họp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị tranh luận về việc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và kết quả đầu ra của Tòa án trong phiên họp này là Tòa án phải ra một trong các quyết định (đưa hoặc không đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ việc xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc).
Như vậy, để hiểu được bản chất của hình thức trợ giúp pháp lý trong quá trình xem xét, quyết định việc đưa người nghiện ma tuý từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của Tòa án tại phiên họp theo Pháp lệnh số 01/2022/UBTVQH15 thì cần căn cứ vào quy định tại khoản 5 Điều 2, điểm b khoản 1 và điểm a khoản 3 Điều 7, Điều 21… của Pháp lệnh này.
Tiếp đến cần phải xem xét trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân bản chất là gì?
Về thẩm quyền được giao cho Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có trụ sở cơ quan của người đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính; Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người bị đề nghị có hành vi vi phạm trong trường hợp người đề nghị là Trưởng Công an cấp huyện, Giám đốc Công an cấp tỉnh theo quy của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền xét lại quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện bị khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị.
Về trình tự, thủ tục: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án thụ lý hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, Tòa án phải ra quyết định, đối với vụ việc cần có thời gian kiểm tra, đánh giá, tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc các vụ việc phức tạp khác thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày. Sau khi được phân công, thẩm phán sẽ kiểm tra hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Thẩm phán có văn bản yêu cầu tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cử trợ giúp viên pháp lý, luật sư trong trường hợp người bị đề nghị là người chưa thành niên quy định tại khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh này. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, căn cứ vào kết quả kiểm tra hồ sơ, thẩm phán phải quyết định việc mở phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
Thành phần phiên họp gồm: Người tiến hành phiên họp gồm có thẩm phán và thư ký phiên họp; người tham gia phiên họp gồm có người đề nghị hoặc người được ủy quyền; kiểm sát viên; người bị đề nghị, người đại diện hợp pháp của người bị đề nghị (nếu có); cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị đề nghị là người chưa thành niên; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị….
Trong trình tự, thủ tục phiên họp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị trình bày ý kiến về căn cứ áp dụng biện pháp xử lý hành chính hoặc biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng để thay thế cho biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; nhân thân của người bị đề nghị; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; hình thức, biện pháp đã giáo dục; đề nghị hoặc không đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính; thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính hoặc biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị tranh luận các vấn đề có liên quan với người đề nghị hoặc người được ủy quyền. Kết quả đầu ra của phiên họp là Tòa án sẽ ra một trong các quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp xử lý hành chính; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính hoặc quyết định áp dụng biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng.
Như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể thấy rằng tại cả hai Pháp lệnh đã quy định rõ tư cách tham gia phiên họp và trách nhiệm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị. Cùng với những quy định trên, đối chiếu về chủ thể thực hiện và nội hàm của các hình thức trợ giúp pháp lý được quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 tại Điều 31 (tham gia tố tụng), Điều 32 (tư vấn pháp luật), Điều 33 (đại diện ngoài tố tụng), cụ thể như sau:
Hình thức trợ giúp pháp lý tư vấn pháp luật được quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017: “Người thực hiện trợ giúp pháp lý tư vấn pháp luật cho người được trợ giúp pháp lý bằng việc hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến tranh chấp, khiếu nại, vướng mắc pháp luật; hướng dẫn giúp các bên hòa giải, thương lượng, thống nhất hướng giải quyết vụ việc”.
Hình thức trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng được quy định tại khoản 1 Điều 31 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017: “Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này và pháp luật về tố tụng”.
Hình thức trợ giúp pháp lý đại diện ngoài tố tụng được quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017: “Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý đại diện ngoài tố tụng cho người được trợ giúp pháp lý trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
Có thể thấy rằng, trong phiên họp xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Pháp lệnh số 01/2022/UBTVQH15 và phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo Pháp lệnh số 03/2022/UBTVQH15, trợ giúp viên pháp lý và luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia phiên họp với vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp người được trợ giúp pháp lý cho người bị đề nghị. Bên cạnh đó tại khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH15 xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng quy định: “Hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, cản trở hoạt động giải quyết vụ việc của cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Pháp lệnh Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân và Pháp lệnh Trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem xét, quyết định việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mà không phải là tội phạm thì bị áp dụng xử phạt vi phạm hành chính như hành vi cản trở hoạt động tố tụng theo quy định của Pháp lệnh này”.
Như vậy, xét về nội hàm hoạt động, chủ thể thực hiện thì việc tham gia phiên họp xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Pháp lệnh số 01/2022/UBTVQH15 và phiên họp xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân theo quy định tại Pháp lệnh số 03/2022/UBTVQH15 của trợ giúp viên pháp lý và luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý được thực hiện dưới hình thức tham gia tố tụng. Trong trường hợp này, khi nhận được yêu cầu trợ giúp pháp lý, Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sẽ ra quyết định cử người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý./.
ThS. Trịnh Thị Thanh
Cục Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp
Ảnh: Internet
Tài liệu tham khảo:
1. Pháp lệnh số 01/2022/UBTVQH15 ngày 24/3/2022.
2. Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH15 ngày 18/8/2022.
3. Pháp lệnh số 03/2022/UBTVQH15 ngày 13/12/2022.
4. Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
5. Luật Phòng, chống ma túy năm 2021.
6. Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.