Xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là nhiệm vụ quan trọng trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cùng với những kết quả tích cực của xây dựng và hoàn thiện pháp luật, Chính phủ đang thực hiện bước chuyển hướng chiến lược từ đặt trọng tâm vào xây dựng và hoàn thiện pháp luật sang hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, tính liên thông, gắn kết mật thiết giữa công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật. Trong thời gian qua, Chính phủ đã đặc biệt quan tâm triển khai nhiều công việc nhằm bảo đảm hiệu quả thi hành pháp luật của các văn bản luật khi được ban hành. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác tổ chức thi hành pháp luật của Việt Nam cũng còn những hạn chế, vướng mắc cần khắc phục.
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, cùng với việc coi trọng công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thì hoạt động tổ chức thi hành cũng cần thiết được quan tâm, nghiên cứu nhằm mục đích phát huy vai trò, giá trị điều chỉnh quan hệ xã hội bằng pháp luật. Nội hàm của thuật ngữ tổ chức thi hành pháp luật (TCTHPL) thường được hiểu bao gồm ba yếu tố cơ bản là: (i) Xác định rõ các công việc cần thực hiện (liên quan đến nhận thức pháp luật như tuyên truyền, phổ biến pháp luật; liên quan đến tăng cường năng lực của cán bộ, công chức theo luật thực hiện nhiệm vụ; xây dựng và hoàn thiện thể chế - văn bản hướng dẫn; phân công, trách nhiệm hướng dẫn tổ chức thực hiện pháp luật trong nội bộ các cơ sở; kinh phí thực hiện; sự phân công, phối hợp trách nhiệm của các bộ phận liên quan); (ii) Xác định rõ trách nhiệm của cơ quan có liên quan khi thực hiện công việc đó; (iii) Trách nhiệm báo cáo, phản ánh kết quả và những khó khăn, vướng mắc gặp phải khi thực hiện các công việc được giao[1]. Trên thực tế, công tác TCTHPL ở Việt Nam hiện nay có đạt được hiệu quả cao hay không phụ thuộc khá nhiều vào việc xây dựng các bảo đảm thiết yếu để TCTHPL. Đó là những bảo đảm cơ bản sau:
1. Bảo đảm về yếu tố chính trị
Yếu tố chính trị có ảnh hưởng quan trọng tới xây dựng pháp luật, từ đó có tác động nhất định đối với công tác TCTHPL, đưa pháp luật vào đời sống xã hội. Cụ thể, trong xây dựng pháp luật, yếu tố chính trị thể hiện ở sự ổn định bền vững của thể chế chính trị và môi trường chính trị đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; tạo niềm tin của các cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên và người dân đối với Đảng, Nhà nước, từ đó quán triệt, tin tưởng và nghiêm chỉnh thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, bảo đảm mọi quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng đối với chiến lược xây dựng pháp luật, xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật cho từng lĩnh vực phải được đề ra kịp thời, phù hợp yêu cầu khách quan, đáp ứng đòi hỏi từ thực tiễn quản lý của Nhà nước, bởi đây là cơ sở để Nhà nước thể chế hóa thành các quy định pháp luật tạo tiền đề pháp lý cho hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật sau này. Mặt khác, Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc sự cần thiết xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, toàn diện, là cơ sở xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân chung tay tham gia góp ý kiến, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước trong công tác xây dựng và đặc biệt là TCTHPL.
Về ý thức chính trị thể hiện ở việc các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền TCTHPL phải quán triệt, thấm nhuần nhiệm vụ chính trị của mình, các cấp, các ngành lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, sâu sát từng công đoạn trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật. Qua đó sẽ giúp cho hoạt động TCTHPL đạt chất lượng, hiệu quả cao, góp phần tạo niềm tin, tạo ý thức, trách nhiệm chính trị của các chủ thể khác; góp phần quan trọng trong triển khai các hoạt động đưa pháp luật đến với đời sống xã hội.
Về sự ảnh hưởng của dân chủ xã hội chủ nghĩa đối với công tác TCTHPL ở nước ta hiện nay. Khi xã hội có nền dân chủ rộng rãi, người dân được tiếp cận thông tin đa dạng, nhiều chiều, công khai, chủ động tham gia góp ý kiến trong các giai đoạn của quy trình tổ chức thực hiện pháp luật; đồng thời, các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật phải lắng nghe, tiếp thu ý kiến, phản hồi ý kiến của người dân công khai, minh bạch; trường hợp tiếp thu ý kiến thì cụ thể ý kiến về nội dung gì, nếu không tiếp thu thì phải giải trình rõ tại sao không tiếp thu. Qua đó, một mặt bảo đảm quyền dân chủ của người dân trong xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật, mặt khác, những ý kiến góp ý từ người dân, từ cộng đồng sẽ giúp các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền xây dựng và đặc biệt là tổ chức thực hiện pháp luật sẽ bảo đảm đáp ứng yêu cầu từ thực tiễn, phản ảnh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Hiện nay, có thể nói, nhận thức về TCTHPL của Nhà nước nói chung, của các cơ quan có thẩm quyền nói riêng chưa tương xứng với nhận thức về hoạt động lập pháp. Có thể nói rằng, luật sau khi ban hành, có hiệu lực với các văn bản cụ thể hóa là chưa đủ để tự nó đi vào cuộc sống mà phải bằng công tác TCTHPL một cách quyết liệt không kém so với hoạt động lập pháp. Do vậy, để công tác TCTHPL có sự chuyển biến mạnh mẽ, Bộ Chính trị nên ban hành nghị quyết về việc TCTHPL, trong đó nhấn mạnh trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, các ngành, các cấp đối với công tác này.
2. Bảo đảm về mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay
Mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật chính là yếu tố tiền đề, bảo đảm quan trọng để công tác TCTHPL đạt kết quả cao trong thực tiễn. Bởi, không có pháp luật thì không có cái để thực hiện và không có hệ thống pháp luật có chất lượng thì cũng không có tổ chức thực hiện có hiệu quả. Dưới góc độ khoa học, một hệ thống pháp luật hoàn thiện phải đảm bảo các tiêu chí về tính toàn diện, tính đồng bộ - thống nhất, tính khả thi - phù hợp với thực tiễn đời sống, tính khách quan, tính công khai, minh bạch, ổn định, tính gọn nhẹ và được xây dựng trên một kĩ thuật lập pháp cao.
Có thể thấy, hệ thống pháp luật Việt Nam từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây đã có sự phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu to lớn, tạo cơ sở, tiền đề thuận lợi cho công tác TCTHPL, đưa pháp luật vào đời sống và phát huy vai trò, giá trị to lớn của pháp luật trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hệ thống pháp luật Việt Nam cũng đã và đang bộc lộ những khiếm khuyết nhất định. Chính những hạn chế của hệ thống pháp luật có ảnh hưởng nhất định, gây nhiều khó khăn cho việc tổ chức thực hiện pháp luật trong thực tiễn. Điều này được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật còn nhiều chồng chéo, mâu thuẫn: Tính cồng kềnh, sự tồn tại các bất cập và mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật làm giảm tính minh bạch của pháp luật, khiến cho pháp luật trở nên phức tạp, khó hiểu, khó áp dụng, dẫn đến việc TCTHPL gặp nhiều khó khăn, thậm chí trong một số trường hợp còn không thể tổ chức thực hiện các quy định pháp luật vào đời sống.
Thứ hai, tính ổn định của hệ thống pháp luật cơ bản chưa cao, nhiều quy định pháp luật thường xuyên thay đổi: Thực tế này một phần do hệ quả tất yếu của việc chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường; phần khác là do nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy, các quan hệ xã hội thường xuyên vận động, biến đổi không ngừng. Trong quá trình thể chế hóa các yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội, có không ít các quan điểm e ngại với những vấn đề mới, chỉ chấp nhận những vấn đề đã chín muồi, có sự đồng thuận cao, nên khó tạo ra những đột phá và từ đó, khó có sự ổn định cần thiết. Việc thiếu tính ổn định, thường xuyên bị thay đổi của pháp luật dẫn đến những khó khăn đáng kể trong tổ chức thực hiện pháp luật và tác động xấu đến sự ổn định của các quan hệ xã hội, nhất là đối với các quan hệ kinh tế. Chính vì vậy, cần có những tầm nhìn và quan điểm chiến lược cho sự phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội cụ thể trong cả hệ thống chính trị.
Thứ ba, một số văn bản quy phạm pháp luật được ban hành có chất lượng hạn chế, tính quy phạm thấp: Điều đó được hiểu rằng, văn bản quy phạm pháp luật tồn tại ở dạng “khung”, “tuyên ngôn”, thiếu những quy tắc xử sự cụ thể mà chủ thể phải thực hiện. Điều này gây khó khăn cho công tác TCTHPL, bởi lẽ, để tổ chức thi hành thì các chủ thể cần phải ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết, nhưng hướng dẫn thế nào cho đúng thì lại là vấn đề không dễ.
Thứ tư, tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật còn hạn chế: Đảm bảo công khai, minh bạch trong việc tổ chức thực hiện pháp luật trước hết được thể hiện ở việc công khai các quy định về mặt nội dung, quy trình tổ chức thực hiện làm cơ sở để tăng cường sự hiểu biết của người dân đối với việc tổ chức thực hiện pháp luật. Sự hiểu biết pháp luật của những chủ thể tham gia vào quá trình thực hiện pháp luật là điều kiện cơ bản nhất để tổ chức thực hiện pháp luật có hiệu quả. Đảm bảo công khai, minh bạch trong việc tổ chức thực hiện pháp luật còn bao hàm nghĩa tạo cơ hội cho các chủ thể trong xã hội được tham gia phản biện về nội dung quy định pháp luật cũng như cách thức tổ chức thực hiện các quy định pháp luật đó. Tạo cơ hội để thu nhận các phản biện sẽ giúp cho những cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật phát hiện được những điểm bất cập trong quá trình thực hiện công việc. Đó là những cơ sở quan trọng đề điều chỉnh, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
Thứ năm, tính hệ thống của pháp luật còn hạn chế: Các văn bản luật, văn bản dưới luật khác nhau chưa thực sự tạo thành một chỉnh thể với những nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt mang tính chuyên ngành hoặc liên ngành. Điều này gây nhiều cản trở cho việc triển khai các hoạt động trong quá trình TCTHPL vào đời sống.
3. Bảo đảm về năng lực tổ chức và nguồn nhân lực trong tổ chức thi hành pháp luật ở Việt Nam hiện nay
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và thượng tôn pháp luật, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngoài kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ còn phải có kiến thức về pháp luật và tính chuyên nghiệp trong thi hành công vụ nói chung và TCTHPL nói riêng. Vì đây là chủ thể trực tiếp thi hành pháp luật, là cầu nối đưa pháp luật vào cuộc sống, là nhân tố bảo đảm quan trọng để tổ chức thực hiện pháp luật đạt hiệu quả. Để đảm bảo pháp luật phục vụ quyền và lợi ích chính đáng của con người, sự phát triển của quốc gia, các chủ thể phải nhận thức đầy đủ về pháp luật, riêng chủ thể trực tiếp tổ chức thực hiện pháp luật phải thường xuyên nâng cao nhận thức theo những tiêu chuẩn, tiêu chí phân loại, đánh giá cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan, tổ chức thực hiện pháp luật gắn với sự gương mẫu, tuân thủ đạo đức nghề nghiệp. Như vậy, thực hiện pháp luật của người có thẩm quyền, người thực hiện pháp luật cũng như công tác tổ chức cán bộ trong tổ chức thực thi pháp luật là điều kiện bảo đảm hiệu quả TCTHPL và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Nhận thức và hiểu biết pháp luật của xã hội, đặc biệt là người có thẩm quyền TCTHPL có ảnh hưởng nhất định tới chất lượng của hoạt động thi hành pháp luật. Người có thẩm quyền TCTHPL có nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của công tác TCTHPL trong việc đánh giá kết quả, hiệu quả thực thi pháp luật thì trong hoạt động quản lý sẽ gắn trách nhiệm của từng chủ thể tham gia vào quá trình TCTHPL, từ đó, đề cao trách nhiệm và đạo đức công vụ, trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo, điều hành và thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên chức. Về phía xã hội, nếu cá nhân, tổ chức không nhận thức đầy đủ về quyền chủ thể, quyền của người dân cũng như quyền tham gia, phối hợp của cá nhân, tổ chức trong TCTHPL sẽ dẫn đến hạn chế về năng lực tham gia xây dựng pháp luật, giám sát, theo dõi và phản biện xã hội đối với việc thực thi các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Như vậy, đây vừa là yếu tố đảm bảo về mặt chủ quan của các chủ thể thực hiện pháp luật, vừa là mục tiêu phải đạt được trong TCTHPL.
Thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, các quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức trong đánh giá và phản ứng chính sách khi thi hành pháp luật còn chung chung gây nhiều khó khăn trong việc tổ chức thực hiện pháp luật. Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật chưa có quy định trách nhiệm đánh giá tính khả thi chính sách của văn bản pháp luật. Ở đây, cần phân biệt nhiệm vụ đánh giá tính khả thi của văn bản và tính khả thi của chính sách. Bởi, một chính sách có thể rất khả thi nhưng do kỹ thuật chuyển tải chính sách trong văn bản pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu dẫn đến hiệu lực, hiệu quả của văn bản thấp hoặc ngược lại, văn bản được bảo đảm hiệu lực thi hành nhưng chính sách chưa phù hợp, chưa đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Do vậy, trong thời gian tới, khi ban hành Luật Tổ chức thi hành pháp luật cần quan tâm đến biện pháp nâng cao năng lực thực thi pháp luật thông qua những quy định cụ thể về trách nhiệm đánh giá chính sách của các chủ thể tổ chức thực thi; thúc đẩy năng lực thu thập thông tin, năng lực phân tích thông tin và đưa ra sự đánh giá. Năng lực thu thập thông tin, phân tích thông tin là những năng lực quan trọng nhất giúp các chủ thể thực thi pháp luật hoàn thành việc nâng cao năng lực đánh giá thực thi pháp luật. Đây cũng chính là những giải pháp mang tính nền tảng cho việc nâng cao năng lực đề xuất và xây dựng chính sách của Chính phủ trong thực thi pháp luật nói chung và pháp luật về công vụ nói riêng.
Như vậy, yếu tố con người - nguồn nhân lực là một trong những yếu tố có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả của hoạt động TCTHPL ở Việt Nam hiện nay. Do vậy, để công tác TCTHPL trong thời gian tới đạt được những kết quả khả quan cần xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có năng lực thực thi pháp luật đáp ứng những tiêu chí cơ bản của pháp luật trên những lĩnh vực cơ bản như: (i) Năng lực đánh giá chính sách và phản ứng chính sách về công vụ; (ii) Năng lực soạn thảo văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ công vụ bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp; (iii) Trách nhiệm giải trình; (iv) Năng lực rà soát, kiểm tra, đánh giá tình hình thi hành pháp luật công vụ. Từ đó, bổ sung các tiêu chí đánh giá năng lực TCTHPL công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ tổ chức và theo dõi thi hành pháp luật công vụ nói riêng cũng như TCTHPL nói chung. Việc xây dựng tiêu chí cụ thể đánh giá năng lực thực thi pháp luật công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức sẽ là một trong những giải pháp góp phần thực hiện nhiệm vụ trọng tâm về đổi mới công tác đánh giá cán bộ, công chức; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong TCTHPL; thông qua đó, nghiên cứu, xây dựng các tiêu chí cụ thể, định lượng để xác định được mức độ thực thi pháp luật, cũng như đánh giá được chính xác, toàn diện hiệu quả, tác động của văn bản quy phạm pháp luật trong thực tiễn.
4. Bảo đảm sự phù hợp về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật ở nước ta hiện nay
Thước đo hiệu lực, hiệu quả của công tác thực thi pháp luật được thể hiện qua nhiều tiêu chí khác nhau như: Chất lượng văn bản quy phạm pháp luật, kết quả tác động của văn bản đến các quan hệ xã hội được điều chỉnh, chi phí trong hoạt động xây dựng, ban hành, tổ chức và giám sát thực hiện. Do vậy, cơ chế phối hợp giữa cơ quan ban hành, cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật và cơ quan bảo vệ pháp luật có vai trò rất quan trọng nhằm bảo đảm hiệu lực của pháp luật. Mục tiêu của hoạt động tổ chức thực thi pháp luật là phải đo lường, đánh giá được tác động của văn bản pháp luật trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực; những thuận lợi, khó khăn trong quá trình tổ chức thực thi pháp luật, để từ đó sớm có những đề xuất với cơ quan ban hành pháp luật kịp thời điều chỉnh chính sách, pháp luật cho tương xứng.
Trong thực thi pháp luật về công vụ, cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa Quốc hội và Chính phủ theo hướng kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội đối với hoạt động tổ chức thực thi pháp luật về công vụ là cơ sở để thẩm định, thẩm tra những chính sách công vụ mới do Chính phủ trình. Tiêu chí xem xét trạng thái của các quan hệ xã hội trước và sau khi có sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật về công vụ phải được coi là tiêu chí quan trọng nhất khi đo lường tính hiệu lực, hiệu quả của hoạt động ban hành pháp luật về công vụ. Do đó, báo cáo về kết quả giám sát thực hiện pháp luật công vụ cần phải được xem xét, tiến hành thẩm tra kỹ lưỡng để trở thành cơ sở quan trọng cho hoạt động xây dựng và ban hành pháp luật công vụ. Thêm vào đó, cần nghiên cứu vai trò, cơ chế phối hợp của Tòa án trong việc đề nghị xem xét tính hợp pháp, tính hợp lý của các văn bản quy phạm pháp luật khi quy định của các văn bản quy phạm pháp luật đó được áp dụng để giải quyết các vụ việc cụ thể tại Tòa án, trên cơ sở đề nghị của Tòa án với tư cách là chủ thể có thẩm quyền TCTHPL, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao. Như vậy, trong quá trình xây dựng Luật TCTHPL cần có sự ghi nhận quyền kiến nghị giám sát của các chủ thể tổ chức thực thi pháp luật trong mối tương quan với Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
5. Bảo đảm về điều kiện vật chất và các yếu tố khác để công tác tổ chức thi hành pháp luật ở nước ta đạt hiệu quả cao
Các yếu tố này là điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, ứng dụng công nghệ, phát triển Chính phủ điện tử và đặc biệt là nguồn kinh phí để TCTHPL. Đây là điều kiện đảm bảo cho TCTHPL đạt hiệu quả, phát huy đầy đủ vai trò và trách nhiệm của Nhà nước nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung.
Kinh phí cho công tác TCTHPL là vấn đề quan trọng, then chốt quyết định tới hiệu quả của hoạt động trong thực tiễn. Trên thực tế, công tác TCTHPL thường bao gồm nhiều khâu, nhiều công đoạn, do đó, nguồn kinh phí luôn là vấn đề hàng đầu cần được đáp ứng để bảo đảm hiệu quả trong công đoạn cũng như của toàn bộ quá trình TCTHPL ở nước ta hiện nay.
Ngoài ra, việc chú trọng phát triển Chính phủ điện tử, đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng, trang thiết bị kỹ thuật, ứng dụng công nghệ để công khai, minh bạch hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trên môi trường mạng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước nói riêng và thi hành pháp luật nói chung, phục vụ người dân, tổ chức ngày càng tốt hơn. Đồng thời, tổ chức đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; bảo đảm đời sống cho người làm công tác tổ chức thi hành pháp luật; có cơ chế, chính sách và chế độ ưu đãi cho người làm công tác TCTHPL nhất là việc cung cấp thông tin, giáo dục, đào tạo nghiệp vụ, chuyên môn sâu, nhằm giúp họ thuận lợi thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật.
Bên cạnh đó, các yếu tố như văn hóa pháp lý, ý thức pháp luật hoặc truyền thống văn hóa dân tộc cũng ít nhiều có sự tác động đến hiệu quả của công tác TCTHPL ở nước ta hiện nay. Yếu tố văn hóa, nhất là văn hóa pháp lý có sự ảnh hưởng rất lớn đối với cơ chế điều chỉnh pháp luật và hiệu quả TCTHPL bởi yếu tố này chuẩn bị cho cá nhân bước vào đời sống xã hội, tức là cuộc sống trong xã hội, chỉ dẫn cho cá nhân lựa chọn hành vi phù hợp với các khuôn mẫu hành vi được thừa nhận trong xã hội, hình thành ở cá nhân khả năng chiếm giữ và thực hiện những vai trò xã hội nhất định. Tuy nhiên, cần lưu ý đối với trường hợp quy phạm pháp luật bị quy phạm văn hóa, xã hội ngăn trở, khi yếu tố pháp luật xung đột với yếu tố văn hóa, xã hội thì thông thường quy phạm phạm pháp luật sẽ bị bỏ qua, các quy phạm về văn hóa, xã hội do phù hợp với lợi ích và gần gũi với tâm lý con người hơn nên theo thói quen sẽ được mọi người chọn để hành động trong thực tế. Vì vậy, để TCTHPL đạt hiệu quả cần chú ý tới hoạt động ban hành các quy định pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm sự phù hợp với quan niệm đạo đức, văn hóa, xã hội, phong tục tập quán và thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam.
Đại học Luật Hà Nội
[1]. Xem: Phạm Thị Ngọc Dung, Tổ chức thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường đô thị ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2017, tr. 49 - 50.