Thông qua hòa giải, đối thoại thành giúp việc giải quyết vụ việc triệt để, Tòa án không phải thực hiện các khâu từ thụ lý vụ án đến xét xử, do đó, tiết kiệm được chi phí, thời gian, công sức của các bên đương sự và của Nhà nước; hạn chế tranh chấp, khiếu kiện kéo dài. Kết quả hòa giải thành, đối thoại thành được Tòa án công nhận bằng thủ tục nhanh gọn và có giá trị pháp lý thi hành như bản án. Vì kết quả giải quyết các tranh chấp thông qua hòa giải, đối thoại được các bên đương sự hoàn toàn tự nguyện thi hành, thậm chí thi hành ngay tại phiên hòa giải (ví dụ, bị đơn trả tiền nợ ngay tại phiên hòa giải cho nguyên đơn; hay qua phân tích, giải thích của hòa giải viên thì vợ chồng nhìn nhận được sai trái của mỗi người mà bỏ qua cho nhau để về sống đoàn tụ, xây dựng hạnh phúc gia đình, con cái không phải gánh hậu quả cảnh thiếu tình cảm, sự chăm sóc của bố mẹ, anh chị em không chịu cảnh chia ly). Nếu trong quá trình hòa giải viên hòa giải, đối thoại mà các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ việc thì thẩm phán được phân công phụ trách hòa giải, đối thoại ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành.
Sau khi hòa giải viên tiến hành hòa giải, đối thoại vụ việc mà thuộc trường hợp quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5 Điều 40 và khoản 3 Điều 41 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì hòa giải viên chuyển đơn và tài liệu kèm theo cho Tòa án đã nhận đơn để tiến hành xem xét, thụ lý vụ việc theo trình tự tố tụng dân sự, tố tụng hành chính. Tuy nhiên, qua thực tiễn thực hiện Luật đã phát sinh bấp cập cần sửa đổi, bổ sung. Cụ thể, đoạn 2 khoản 2 Điều 41 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định: Thẩm phán đã tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại “không” được tham gia giải quyết vụ việc đó theo trình tự tố tụng dân sự, tố tụng hành chính. Quy định này đã gây ra khó khăn trong thực tiễn thi hành cần có hướng khắc phục.
Thực tiễn hiện nay ở một số Tòa án các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên chế ít, thậm chí có đơn vị chỉ có 04 biên chế (gồm 01 thẩm phán đồng thời là chánh án, thậm chí chỉ có 01 phó chánh án phụ trách; 02 thư ký, 01 kế toán) nếu thẩm phán là chánh án hoặc phó chánh phụ trách trực tiếp thực hiện hòa giải, đối thoại thì khi hòa giải, đối thoại không thành mà thẩm phán này lại không được giải quyết vụ việc đó theo trình tự tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thì theo quy định, Tòa án nơi hòa giải, đối thoại không thành phải chuyển vụ việc cho Tòa án cấp tỉnh thụ lý, giải quyết (vì cấp huyện không còn thẩm phán nào khác). Trường hợp có nhiều vụ việc như vậy chuyển cho Tòa án cấp tỉnh thì dễ dẫn đến tình trạng dồn án.
Từ bất cập đó, theo quan điểm của tác giả, nên sửa đổi, bổ sung quy định nêu trên theo hướng: Thẩm phán đã tham gia phiên họp ghi nhận kết hòa giải, đối thoại “vẫn được” giải quyết vụ việc đó theo trình tự tố tụng dân sự, tố tụng hành chính (thay “không được” thành “vẫn được”). Bởi vì, thẩm phán đã tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại mà không thành, khi chuyển thành vụ án thì thẩm phán đó vẫn được tiến hành giải quyết vụ việc đó theo quy định do không thuộc trường hợp quy định tại Điều 52, Điều 53 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng; thay đổi thẩm phán, hội thẩm nhân dân; Điều 45, Điều 46 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định về những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng; những trường hợp thẩm phán, hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi. Hơn nữa, thẩm phán đã được phân công phụ trách hòa giải, đối thoại thường nắm rõ các tình tiết nên sẽ có nhiều thuận lợi hơn khi giải quyết vụ việc./.
Chánh án Tòa án nhân dân huyện Phước Sơn, Tỉnh Quảng Nam