Abstract: The Law on state compensation liability of 2009 unifies provisions with respect to damage compensation for organizations, citizens caused by illegal acts of civil servants. In the area of civil judgment execution, there are, especially, cases, where civil servants might break the law with huge amounts. This has a bad impact on legitimate rights and interests of organizations and citizens who have to implement illegal execution decisions. By means of this article, the author tries to point out the universal understanding of legal provisions relating to this issue as well as to comprehensively assess the contents and the process of existing law on state compensation liability in the civil judgment execution.
1.1. Về việc xác định đối tượng được bồi thường
Điều 2 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 quy định về đối tượng được bồi thường là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tổn thất về tinh thần trong các trường hợp quy định tại Luật. Tuy nhiên, để được Nhà nước giải quyết bồi thường, người bị thiệt hại phải có đủ căn cứ thực hiện quyền yêu cầu bồi thường là văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ, tiếp theo đó là một chuỗi các thủ tục như nộp hồ sơ yêu cầu bồi thường sau khi có đủ căn cứ thực hiện quyền yêu cầu bồi thường (Điều 16 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước), thương lượng việc giải quyết bồi thường (Điều 19 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước)… Có thể thấy, đối với trường hợp người bị thiệt hại đã chết, không thể tự thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của mình thì cho đến nay, pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (TNBTCNN) chưa đặt ra quy định để bồi thường cho thân nhân của họ. Trong khi đó, Nhà nước dân chủ là Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước hành vi của mình do người thi hành công vụ gây ra cho người bị thiệt hại. Tuy nhiên, sau khi người bị thiệt hại qua đời, những thiệt hại về vật chất và tinh thần mà người bị thiệt hại phải gánh chịu khi còn sống cũng ảnh hưởng rất lớn đến thân nhân của họ, Nhà nước cũng chưa thực hiện được việc tự chịu trách nhiệm trước người dân đối với hành vi của mình. Đây cũng là vấn đề mà pháp luật về TNBTCNN hiện hành chưa quy định rõ, khiến cho người bị thiệt hại và thân nhân của họ sẽ phải chịu những tổn thất về vật chất và tinh thần khi người bị thiệt hại qua đời.
1.2. Về căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường
Theo quy định của pháp luật về TNBTCNN thì một trong những căn cứ để thực hiện quyền yêu cầu bồi thường đó là khi có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, quy định này chưa thực sự tạo được thuận lợi cho người bị thiệt hại trong lĩnh vực thi hành án dân sự (THADS) thực hiện quyền yêu cầu bồi thường. Để có được văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ, thì người bị thiệt hại phải trải qua rất nhiều giai đoạn phức tạp, khó khăn. Hơn nữa, các văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ thường có nội dung đánh giá hành vi của người thi hành công vụ có hợp pháp và đúng với quy định của pháp luật hay không, việc người bị thiệt hại khiếu nại, tố cáo là có cơ sở hay không. Tuy nhiên, pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động THADS chỉ quy định 03 loại văn bản xác định hoặc làm cơ sở để xác định người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật được quy định tại Điều 4 Thông tư liên tịch số 24/2011/TTLT-BTP-BQP ngày 15/12/2011 của Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự (Thông tư liên tịch số 24): “1. Quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền theo quy định tại Điều 142 Luật Thi hanh án dân sự đã có hiệu lực pháp luật; 2. Kết luận nội dung tố cáo của người có thẩm quyền theo quy định tại Điều 157 Luật Thi hành án dân sự; 3. Bản án, quyết định của Tòa án có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật”. Trong khi đó, thực tế áp dụng phát sinh nhiều loại văn bản mà về mặt nội dung thì có nội dung xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ, nhưng về mặt hình thức lại không phải là văn bản xác định hành vi trái pháp luật theo quy định tại Thông tư liên tịch số 24, cụ thể là: (i) Quyết định thu hồi quyết định hoặc hủy bỏ quyết định về THADS bị khiếu nại vì lý do quyết định đó được ban hành trái pháp luật (có thể sai về thẩm quyền hoặc sai về nội dung); (ii) Kết luận thanh tra cũng có thể là một trong những căn cứ để xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ. Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 50 Luật Thanh tra năm 2010 thì một trong những nội dung của kết luận thanh tra là “xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật”.
1.3. Về thủ tục giải quyết bồi thường
Theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 thì trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường tại cơ quan có trách nhiệm bồi thường gồm có 02 giai đoạn:
Một là: Giải quyết bồi thường tại cơ quan có trách nhiệm bồi thường.
Hai là: Trong trường hợp người bị thiệt hại không đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường, thì họ có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường theo thủ tục tố tụng dân sự tại Tòa án.
Thực tế cho thấy, có nhiều vụ việc mặc dù chưa được giải quyết thông qua trình tự thương lượng giữa cơ quan THADS với người bị thiệt hại nhưng người bị thiệt hại đã có đơn khởi kiện lên Tòa án yêu cầu bồi thường thiệt hại. Một số Tòa án đã tiến hành xét xử và tuyên phần trách nhiệm bồi thường đối với các cơ quan có trách nhiệm bồi thường. Tình trạng Tòa án thụ lý thẳng đơn khởi kiện yêu cầu bồi thường như trên sẽ khiến cho quy trình giải quyết bồi thường không được thực hiện đúng theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, nên nguồn kinh phí chi trả bồi thường sẽ không được sử dụng từ nguồn kinh phí bồi thường nhà nước mà phải sử dụng nguồn kinh phí khác, gây bất lợi cho cơ quan THADS. Điều này tạo ra sự không trùng khớp giữa các quy định của pháp luật, dẫn tới tình trạng các cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật theo các cách khác nhau về cùng một vấn đề. Mặc dù vậy tình trạng này đến nay vẫn chưa có một biện pháp nào để giải quyết dứt điểm.
1.4. Về việc xác định thiệt hại bồi thường
Trên thực tế vẫn phát sinh nhiều trường hợp cơ quan THADS do chưa hiểu rõ các quy định của pháp luật về TNBTCNN và chưa chủ động trong việc đề nghị cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường có thẩm quyền hướng dẫn nghiệp vụ, nên các vụ việc giải quyết bồi thường trong THADS vẫn còn xảy những sai phạm, điển hình là về vấn đề xác định thiệt hại chưa đúng. Theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước hiện hành thì người bị thiệt hại chỉ được bồi thường những thiệt hại được luật quy định từ Điều 45 đến Điều 50 và trong quá trình xác minh thiệt hại, thương lượng việc giải quyết bồi thường, cơ quan THADS chỉ được thương lượng việc bồi thường đối với những thiệt hại mà luật có quy định. Do đó, nếu người bị thiệt hại không thuộc một trong các trường hợp được bồi thường mà pháp luật quy định mà cơ quan THADS vẫn thực hiện việc thương lượng, giải quyết viêc bồi thường là trái pháp luật.
2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự
2.1. Giải pháp hoàn thiện xây dựng pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự
Xuất phát từ những tồn tại, vướng mắc trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và thực tế triển khai thực hiện, pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động THADS đã bộc lộ những hạn chế nhất định cần sửa đổi, bổ sung cho hoàn thiện. Hiện nay một số đạo luật liên quan đến lĩnh vực bồi thường nhà nước mới đã được ban hành như: Luật Khiếu nại năm 2011; Luật Tố cáo năm 2011; Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014; Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 và Bộ luật Dân sự năm 2015. Đặc biệt năm 2013, Hiến pháp sửa đổi đã được Quốc hội thông qua, theo đó việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân đã được đề cao. Chính vì vậy, việc ban hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi) là hết sức cần thiết. Để bảo đảm việc thực thi pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động THADS, tác giả xin đề xuất một số giải pháp hoàn thiện xây dựng pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động THADS như sau:
Thứ nhất, về xây dựng pháp luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước nói chung
- Mở rộng phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước: Hiện nay, việc pháp luật về TNBTCNN chỉ quy định phạm vi TNBTCNN trong ba lĩnh vực chính là quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án là chưa thực sự phù hợp với tinh thần Hiến pháp năm 2013. Một số hoạt động quan trọng như hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng cần được đề xuất là một trong những lĩnh vực chịu sự điều chỉnh của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Bên cạnh đó, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cũng chưa đưa ra được các giới hạn, hạn chế quyền yêu cầu bồi thường với các lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng mà Hiến pháp năm 2013 quy định. Chính vì vậy, phạm vi điều chỉnh của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước nên có sự thay đổi theo hướng mở rộng sao cho phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và các luật chuyên ngành.
- Mô hình cơ quan có trách nhiệm bồi thường: Trong bối cảnh hoàn thiện pháp luật về TNBTCNN mà nhất là vấn đề mở rộng phạm vi TNBTCNN theo yêu cầu của Hiến pháp năm 2013, tác giả cho rằng việc nghiên cứu mô hình cơ quan tập trung, đầu mối thực hiện TNBTCNN là cần thiết, bởi mô hình này sẽ bảo đảm thuận lợi cho người dân trong việc yêu cầu bồi thường vì sẽ không có phát sinh về tranh chấp trách nhiệm giải quyết bồi thường; bảo đảm tính chuyên nghiệp, hiệu quả trong hoạt động giải quyết bồi thường và không gây sức ép lên hoạt động nghiệp vụ thường xuyên của các cơ quan nhà nước, nhất là trong trường hợp phạm vi TNBTCNN được mở rộng[1]. Tác giả cho rằng, đây là một giải pháp hết sức hiệu quả, góp phần nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức và rút ngắn thời gian giải quyết bồi thường.
- Về thanh tra, kiểm tra công tác bồi thường: Vấn đề thanh tra, kiểm tra công tác bồi thường là cần thiết. Hoạt động thực hiện TNBTCNN trong lĩnh vực THADS là hoạt động đặc thù, lấy kinh phí từ ngân sách nhà nước để chi trả tiền bồi thường. Hiện nay, khoản 6 Điều 21 Nghị định số 16/NĐ-CP ngày 03/3/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước không hướng dẫn nhiệm vụ này mà chỉ mang tính định hướng chung. Do vậy, cần có những quy định cụ thể về quy trình thanh tra, kiểm tra trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước để nâng cao hiệu quả công tác giải quyết bồi thường và bảo đảm tính khả thi của luật trong thực tiễn.
Thứ hai, về xây dựng pháp luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự
- Về hồ sơ yêu cầu bồi thường: Để bảo đảm quyền yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại được thực hiện một cách kịp thời, cần quy định linh hoạt hơn về các tài liệu, chứng cứ có liên quan trong hồ sơ như sau:
Trường hợp người bị thiệt hại chưa thể nộp đầy đủ các tài liệu, chứng cứ theo quy định vì lý do khách quan thì người bị thiệt hại có thể bổ sung theo yêu cầu của cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong quá trình giải quyết bồi thường;
Trường hợp người bị thiệt hại đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập tài liệu, chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể làm văn bản yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết bồi thường được diễn ra đúng pháp luật.
- Về căn cứ yêu cầu bồi thường: Mở rộng căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ. Theo đó, tác giả kiến nghị bổ sung thêm các loại văn bản sau để làm căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ mà hiện nay không được quy định trong pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động THADS, đó là: Quyết định thu hồi quyết định THADS; quyết định hủy bỏ quyết định THADS; kết luận của thanh tra.
- Về xác định thiệt hại phải bồi thường: Để thống nhất các quy định về việc xác định thiệt hại phải bồi thường giữa các lĩnh vực trong phạm vi điều chỉnh của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và bảo đảm quyền và lợi ích của người bị thiệt hại, nên hướng dẫn bổ sung thêm quy định về thiệt hại vật chất vào văn bản hướng dẫn như Thông tư liên tịch số 24 như các chi phí thuê luật sư, chi phí đi lại, chi phí khiếu nại, tố cáo… Ngoài ra, tại Điều 47 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 đã có quy định về thiệt hại do tổn thất về tinh thần, nhưng đây mới chỉ là những quy định chung, còn các quy định cụ thể về TNBTCNN trong hoạt động THADS thì chưa được đề cập tới. Vì vậy, trong các văn bản hướng dẫn nên bổ sung các quy định cụ thể các trường hợp được bồi thường do tổn thất về tinh thần bị xâm phạm để người bị thiệt hại cũng như các cơ quan THADS có thể dễ dàng áp dụng trong quá trình giải quyết bồi thường.
2.2. Giải pháp hoàn thiện áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự
Thứ nhất, về quản lý hành chính
- Tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát: Công tác thanh tra, giám sát hoạt động giải quyết bồi thường có ý nghĩa quan trọng giúp cho hoạt động giải quyết bồi thường được diễn ra đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại. Để tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát việc giải quyết bồi thường trong hoạt động THADS thì hàng năm, cơ quan thanh tra của Bộ Tư pháp phải xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra công tác bồi thường nhà nước cụ thể. Để bảo đảm tính khả thi của kế hoạch, cần phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường để nắm tình hình cụ thể trước khi xây dựng kế hoạch, bảo đảm kế hoạch đúng nội dung, tiến độ và có tính khả thi cao. Trong quá trình thanh tra, giám sát nếu phát hiện những sai phạm hay những bất cập, vướng mắc trong quy định của pháp luật về TNBTCNN cần có đề xuất sửa đổi, bổ sung kịp thời các quy định của pháp luật về TNBTCNN trong THADS bảo đảm phù hợp với chính sách pháp luật và thực tiễn thi hành.
- Tiếp tục kiện toàn tổ chức và biên chế thực hiện công tác bồi thường nhà nước: Thực tế hiện nay cho thấy hầu hết đội ngũ cán bộ, nhân viên thực hiện chức năng quản lý nhà nước về TNBTCNN trong hoạt động THADS là kiêm nhiệm. Do đó, họ không thể tập trung hoàn toàn chuyên môn vào công việc, đây là một điểm hạn chế làm cho hoạt động này kém hiệu quả. Vì vậy, cần kiện toàn tổ chức và biên chế cán bộ, công chức làm công tác chuyên môn thực hiện quản lý nhà nước về TNBTCNN trong hoạt động THADS. Mặt khác, cần thường xuyên có những hoạt động tổ chức bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, viên chức thực hiện công tác chuyên môn về quản lý nhà nước về TNBTCNN trong hoạt động THADS.
- Nâng cao chất lượng cơ chế hỗ trợ người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường trong hoạt động THADS: Trung tâm Hỗ trợ thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thuộc Cục Bồi thường Nhà nước - Bộ Tư pháp có chức năng giải đáp vướng mắc pháp luật và hỗ trợ người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường. Bên cạnh đó, để hỗ trợ kịp thời cho người bị thiệt hại trong việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường, tại địa phương, công tác cung cấp thông tin, hướng dẫn thủ tục hỗ trợ người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường cũng đã được các Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp triển khai thực hiện. Thông qua các hoạt động hỗ trợ của Trung tâm Hỗ trợ thực hiện quyền yêu cầu bồi thường, Sở Tư pháp và Phòng Tư pháp, người bị thiệt hại có thể hiểu rõ hơn các trình tự, thủ tục thực hiện quyền yêu cầu bồi thường, giúp cho việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường được diễn ra nhanh chóng, tiết kiệm, hiệu quả và đúng pháp luật. Qua đó quyền, lợi ích chính đáng của người bị thiệt hại sẽ được bảo đảm một cách kịp thời.
- Phối hợp quản lý nhà nước về công tác bồi thường: Theo quy định tại Điều 11 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009, Chính phủ quy định thống nhất quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính và thi hành án, theo đó, Bộ Tư pháp được Chính phủ giao thực hiện nhiệm vụ này. Vì vậy, để thực hiện có hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính và thi hành án, Bộ Tư pháp phải phối hợp với các bộ, ngành, địa phương thực hiện đánh giá chuyên đề về hoạt động giải quyết bồi thường và tổ chức các hội nghị về chuyên đề bồi thường nhà nước trong từng lĩnh vực cụ thể tại một số địa phương. Việc phối hợp tổ chức các hội nghị chuyên đề về TNBTCNN giữa Cục Bồi thường nhà nước và các cơ quan, đơn vị hữu quan cần được đẩy mạnh cả về số lượng và chất lượng.
Thứ hai, về xử lý hành vi vi phạm
Hiện nay, các văn bản pháp luật chưa có các quy định cụ thể điều chỉnh vấn đề xử lý hành vi vi phạm trong công tác giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại. Chính vì vậy, tác giả xin đề xuất một số ý kiến như sau:
- Trong trường hợp người thi hành công vụ là các cán bộ, công chức có hành vi cố ý làm cản trở, gây thiệt hại tới việc giải quyết yêu cầu bồi thường, tùy thuộc vào mức độ lỗi và hậu quả xảy ra, pháp luật có thể quy định một số chế tài như: Truy cứu trách nhiệm hình sự, xử lý kỷ luật (cảnh cáo, cách chức, giáng chức…), xử lý hành chính (phạt tiền, giảm lương, cắt thưởng…).
- Để chấm dứt các hành vi thiếu trách nhiệm, quan liêu của cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nâng cao trách nhiệm của họ trong việc giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại thì việc bồi thường phải được xác định ngay cả khi không gây hậu quả nghiêm trọng, mà chỉ cần có yếu tố gây thiệt hại là đủ. Trong đó, thiệt hại bao gồm cả chi phí đi lại, thu nhập bị mất… của người bị thiệt hại do hành vi thiếu trách nhiệm, quan liêu của cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước gây ra trong quá trình giải quyết yêu cầu bồi thường.
Thứ ba, về tuyên truyền, phổ biến và giải thích pháp luật
- Đổi mới về nội dung, các hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật: Về việc đổi mới về nội dung, các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân phải bảo đảm phù hợp với từng đối tượng. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật cần có sự đa dạng, phong phú như: Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động THADS; xây dựng và khai thác hệ thống tủ sách pháp luật; phổ biến, tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài, internet…
- Nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động THADS cho đội ngũ báo cáo viên pháp luật: Việc tổ chức phổ biến pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động THADS chủ yếu thông qua đội ngũ báo cáo viên. Chính vì vậy, cần quan tâm bồi dưỡng, nâng cao kiến thức chuyên môn đối với đội ngũ báo cáo viên để việc phổ biến, giáo dục pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động THADS có thể đạt hiệu quả cao.
- Tăng cường giải thích pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động THADS: Cần chú trọng tăng cường giải thích pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động THADS đến các cơ quan nhà nước và mọi đối tượng quần chúng nhân dân. Thực tế cho thấy, trong quá trình giải quyết bồi thường, nhiều quy định của pháp luật về TNBTCNN không được hiểu một cách thống nhất, dẫn tới vụ việc không được thụ lý giải quyết hoặc việc giải quyết bị kéo dài hoặc không được giải theo trình tự, thủ tục của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước… gây tốn kém về kinh phí cho ngân sách của Nhà nước, làm giảm niềm tin của người bị thiệt hại, của xã hội vào cơ chế bồi thường của Nhà nước trong hoạt động THADS. Chính vì vậy, cần tăng cường công tác giải thích pháp luật về TNBTCNN nói chung và TNBTCNN trong hoạt động THADS nói riêng để các tổ chức, cá nhân cần phải có cùng một cách hiểu thống nhất về các quy định của pháp luật về TNBTCNN trong THADS.
Bộ Tư pháp
[1]. Nguyễn Thanh Tịnh (2014), “Một số nét khái quát về thực tiễn thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề Thực tiễn thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, tr. 21-22, Hà Nội.