Ảnh minh họa
Sau hơn 05 triển khai thi hành, các quy định của Nghị định số 54/2019/NĐ-CP ngày 19/6/2019 của Chính phủ quy định về kinh doanh dịch vụ karaoke, dịch vụ vũ trường, có hiệu lực kể từ ngày 01/9/2019 (Nghị định số 54/2019/NĐ-CP) đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi để các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động kinh doanh loại hình dịch vụ này, góp phần phát triển kinh tế - xã hội tại các địa phương trong những năm qua. Bên cạnh đó, ý thức chấp hành pháp luật của các tổ chức, cá nhân khi tham gia kinh doanh, sử dụng dịch vụ karaoke, dịch vụ vũ trường cũng được nâng cao. Tuy nhiên, hiện nay, một số quy định của Nghị định số 54/2019/NĐ-CP đã phát sinh các tồn tại, hạn chế, gây khó khăn cho tổ chức, doanh nghiệp kinh doanh karaoke, vũ trường, cần có sự điều chỉnh, cụ thể như sau: một số quy định về điều kiện kinh doanh không còn phù hợp với thực tế, chưa cập nhật theo các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành, các điều kiện kinh doanh tại Nghị định chưa cụ thể hóa các nội dung, dẫn chiếu đến các quy định của pháp luật về công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia khác có liên quan một cách thống nhất, có hệ thống gây khó khăn cho người dân, doanh nghiệp trong việc tra cứu, thực hiện các quy định; quy định về trình tự, thủ tục thẩm định thực tế các địa điểm kinh doanh trước khi cấp phép đã được quy định nhưng chưa cụ thể được thành phần, phân định trách nhiệm giữa các sở, ngành, cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương trong công tác cấp giấy phép, kiểm tra, thu hồi giấy phép kinh doanh dịch vụ karaoke, dịch vụ vũ trường, ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước…
Để khắc phục những vướng mắc này, ngày 12/11/2024, Chính phủ ban hành Nghị định số 148/2024/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 54/2019/NĐ-CP (Nghị định số 148/2024/NĐ-CP), trong đó, sửa đổi, bổ sung một số quy định bảo đảm phù hợp với tình hình mới, cụ thể:
Thứ nhất, về điều kiện kinh doanh dịch vụ karaoke và điều kiện kinh doanh dịch vụ vũ trường.
Nghị định số 148/2024/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ karaoke và điều kiện kinh doanh dịch vụ vũ trường tại Điều 4, Điều 5 Nghị định số 54/2019/NĐ-CP. Về cơ bản, khi kinh doanh hai loại hình này vẫn phải bảo đảm đầy đủ 04 điều kiện đối với dịch vụ karaoke và 05 điều kiện đối với dịch vụ vũ trường. Tuy nhiên, để phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành, Nghị định số 148/2024/NĐ-CP đã sửa đổi khoản 2 Điều 4 và khoản 2 Điều 5 Nghị định số 54/2019/NĐ-CP, theo đó, cơ sở kinh doanh dịch vụ karaoke cần phải “bảo đảm các điều kiện về phòng, chống cháy nổ và an ninh, trật tự theo quy định tại Nghị định số 96/2016/NĐ-CP ngày 01/7//2016 của Chính phủ quy định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và Nghị định số 56/2023/NĐ-CP ngày 24 /7/2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 96/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 quy định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, Nghị định số 99/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 về quản lý và sử dụng con dấu, Nghị định số 137/2020/NĐ-CP ngày 27/11/2020 quy định về quản lý, sử dụng pháo”; đối với kinh doanh dịch vụ vũ trường, phải bảo đảm các điều kiện về phòng, chống cháy nổ và an ninh, trật tự theo quy định tại Nghị định số 96/2016/NĐ-CP và Nghị định số 56/2023/NĐ-CP của Chính phủ.
Ngoài ra, theo Nghị định số 148/2024/NĐ-CP, doanh nghiệp, hộ kinh doanh khi kinh doanh dịch vụ karaoke, dịch vụ vũ trường cần phải bảo đảm tuân thủ các quy định của QCVN 06:2022/BXD Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về An toàn cháy cho nhà và công trình ban hành kèm theo Thông tư số 06/2022/TT-BXD ngày 30/11/2022 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng và Sửa đổi 1:2023 QCVN 06:2022/BXD Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn cháy cho nhà và công trình ban hành kèm theo Thông tư số 09/2023/TT-BXD ngày 16/10/2023 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng; các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy định có liên quan đến an toàn cháy, an toàn chịu lực cho nhà và công trình và phòng cháy, chữa cháy tại cơ sở kinh doanh dịch vụ karaoke, dịch vụ vũ trường[1]. Đối với các trường hợp tổ chức các hoạt động biểu diễn nghệ thuật sẽ thực hiện theo quy định tại Nghị định số 144/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định về hoạt động nghệ thuật biểu diễn[2].
Thứ hai, về thẩm quyền cấp, điều chỉnh và thu hồi Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ karaoke hoặc dịch vụ vũ trường.
Theo quy định tại Điều 9 Nghị định số 54/2019/NĐ-CP, thẩm quyền quyền cấp, điều chỉnh và thu hồi Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ karaoke hoặc dịch vụ vũ trường được quy định như sau: (i) Cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền cấp, điều chỉnh và thu hồi Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ karaoke hoặc dịch vụ vũ trường; (ii) cơ quan cấp Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh thực hiện phân cấp, ủy quyền cho cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa cấp huyện được cấp, điều chỉnh và thu hồi Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ karaoke theo quy định của pháp luật về tổ chức chính quyền địa phương. Trong Nghị định số 148/2024/NĐ-CP, nội dung này được sửa đổi như sau: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền cấp, điều chỉnh và thu hồi Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ karaoke hoặc dịch vụ vũ trường”, “Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch hoặc Sở Văn hóa và Thể thao tiếp nhận và quản lý hồ sơ, giấy phép đủ điều kiện kinh doanh thuộc thẩm quyền cấp giấy phép của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh”.
Như vậy, so với Nghị định số 54/2019/NĐ-CP, Nghị định số 148/2024/NĐ-CP đã phân định rõ trách nhiệm của các cơ quan liên quan, điều này giúp cho công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke, dịch vụ vũ trường được hiệu quả hơn.
Thứ ba, về trình tự cấp Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh.
Trình tự cấp Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh quy định tại Nghị định số 148/2024/NĐ-CP tương tự như tại Nghị định số 54/2019/NĐ-CP cũng gồm các bước cơ bản như: doanh nghiệp hoặc hộ kinh doanh gửi hồ sơ đến cơ quan có thẩm quyền; cơ quan có thẩm quyền thông báo yêu cầu hoàn thiện hồ sơ trong trường hợp hồ sơ chưa đúng quy định; trong trường hợp hồ sơ đầy đủ theo quy định thì tiến hành thẩm định hồ sơ, thẩm định thực tế tại địa điểm kinh doanh và cấp Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh; gửi và lưu Giấy phép. Tuy nhiên, Nghị định số 148/2024/NĐ-CP quy định về thời hạn tại một số bước có sự thay đổi, đồng thời cũng bổ sung quy định về việc thành lập Đoàn thẩm định thực tế, cụ thể: “Trường hợp hồ sơ đầy đủ theo quy định, trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ, cơ quan cấp Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh thẩm định hồ sơ, thành lập Đoàn thẩm định thực tế tại địa điểm kinh doanh về các điều kiện kinh doanh quy định tại Nghị định này để tư vấn cho cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh quyết định cấp hoặc không cấp Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh. Thành phần Đoàn thẩm định không quá 07 thành viên, gồm đại diện các cơ quan: Công an, Văn hóa, Xây dựng và các cơ quan khác có liên quan. Trong thời hạn 04 ngày làm việc kể từ ngày thành lập, Đoàn thẩm định tổ chức thẩm định và ban hành kết quả thẩm định theo Mẫu số 06 tại Phụ lục kèm theo Nghị định này. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày có kết quả thẩm định, cơ quan cấp Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh có trách nhiệm cấp Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh theo Mẫu số 02 tại Phụ lục kèm theo Nghị định này hoặc không cấp Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh”. Trong khi đó, Nghị định số 54/2019/NĐ-CP quy định: “Trường hợp hồ sơ đầy đủ theo quy định, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ, cơ quan cấp Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh thẩm định hồ sơ và thẩm định thực tế các điều kiện quy định tại Nghị định này, cấp Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh”[3].
Từ các quy định trên có thể thấy, Nghị định số 54/2019/NĐ-CP quy định khá chung chung về trình tự cấp Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh khi mà khâu thẩm định hồ sơ và thẩm định thực tế chỉ thực hiện trong thời hạn 05 ngày. Việc quy định thời hạn ngắn như vậy có thể dẫn đến trường hợp cơ sở kinh doanh dịch vụ karaoke, dịch vụ vũ trường chưa thể bảo đảm được công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ để kịp thời thực hiện hoạt động kinh doanh. Khắc phục vướng mắc này, Nghị định số 148/2024/NĐ-CP đã quy định cụ thể việc thành lập Đoàn thẩm định thực tế để thực hiện các hoạt động thẩm định trong các thời hạn nhất định.
Thứ tư, việc gửi và lưu Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh quy định tại Nghị định số 148/2024/NĐ-CP có sự sửa đổi khi quy định cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh lưu 01 bản Giấy phép tại cơ quan cấp Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh, cơ quan tiếp nhận hồ sơ; đăng tải trên trang thông tin điện tử của cơ quan cấp Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh thay vì quy định lưu 02 bản tại cơ quan cấp Giấy phép đủ điều kiện kinh doanh như Nghị định số 54/2019/NĐ-CP. Ngoài ra, Nghị định số 148/2024/NĐ-CP cũng bỏ nội dung về việc gửi cơ quan công an cấp huyện nơi thực hiện kinh doanh; cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc hộ kinh doanh.
Thùy Dung