1. Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với doanh nghiệp khoa học và công nghệ tại Việt Nam
Doanh nghiệp khoa học và công nghệ xuất hiện trên thế giới từ khoảng giữa thế kỷ XX, xuất phát từ mô hình spin-off (doanh nghiệp khởi nguồn) và start-up (doanh nghiệp khởi nghiệp) được hình thành ở các nước công nghiệp phát triển. Thuật ngữ này được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 58 Luật Khoa học và công nghệ năm 2013, theo đó, doanh nghiệp khoa học và công nghệ là doanh nghiệp thực hiện sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khoa học và công nghệ để tạo ra sản phẩm, hàng hóa từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Qua quá trình phát triển, tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) đối với doanh nghiệp khoa học và công nghệ tại Việt Nam là rất lớn, thể hiện qua các mặt:
Thứ nhất, đối với doanh nghiệp khoa học và công nghệ:
CMCN 4.0 đem lại cho thế giới những đột phá về công nghệ, là cuộc cách mạng sản xuất mới, đem lại các giá trị mới, giúp giải phóng con người, giải phóng sức lao động, tạo đà cho các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để trở thành các doanh nghiệp khoa học và công nghệ, ứng dụng các thành tựu của cuộc CMCN 4.0 vào sản xuất, kinh doanh, giúp cho Việt Nam phát triển kinh tế, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng thu nhập bình quân đầu người chỉ ở mức trung bình như hiện nay. Báo cáo của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ đã cung cấp đầy đủ thông tin về tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2019[1]: (i) Doanh nghiệp khoa học và công nghệ đã tạo việc làm cho 31.264 người lao động với thu nhập bình quân tháng là 15 triệu đồng/người. (ii) Tổng doanh thu của 235 doanh nghiệp năm 2019 đạt 147.170,5 tỷ đồng, trong đó, có 217 doanh nghiệp có doanh thu từ sản phẩm khoa học và công nghệ với tổng là 24.123,1 tỷ đồng (chiếm 16,3% tổng doanh thu). Năm 2019, GDP theo giá hiện hành của Việt Nam đạt 6.294.000 tỷ đồng. Như vậy, tổng doanh thu của 235 doanh nghiệp khoa học và công nghệ đạt 2,39 % GDP cả nước; (iii) 198 doanh nghiệp có lãi với tổng lợi nhuận trước thuế năm 2019 đạt 5.268,5 tỷ đồng. Trong đó, tổng lợi nhuận trước thuế của sản phẩm khoa học và công nghệ đạt 1.343,9 tỷ đồng/183 doanh nghiệp[2].
Doanh nghiệp khoa học và công nghệ đang góp phần tạo việc làm cho lao động có trình độ, chuyên môn cao đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật công nghệ, nâng cao thu nhập bình quân đầu người, góp phần ổn định xã hội, phát triển đất nước.
Thứ hai, đối với việc xây dựng và ban hành chính sách pháp luật:
Nhà nước đã có những chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho phát triển doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp khoa học và công nghệ với mục đích khuyến khích và tạo động lực cho các doanh nghiệp nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất, kinh doanh như:
- Điều kiện cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ đã mở rộng hơn, không còn bó hẹp phạm vi ở một số nội dung như trong Thông tư liên tịch số 17/2012/TTLT-BKHCN-BTC-BNV ngày 10/9/2012 của Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài Chính, Bộ Nội vụ sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 06/2008/TTLT-BKHCN-BTC-BNV ngày 18/6/2008 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 80/2007/NĐ-CP ngày 19/5/2007 của Chính phủ về doanh nghiệp khoa học và công nghệ, cụ thể: (i) Được thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp; (ii) Có khả năng tạo ra hoặc ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ được cơ quan có thẩm quyền đánh giá, thẩm định, công nhận; (iii) Có doanh thu từ việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ đạt tỷ lệ tối thiểu 30% trên tổng doanh thu[3].
- Miễn, giảm thuế, ưu đãi tín dụng: Thu nhập của doanh nghiệp khoa học và công nghệ từ hoạt động sản xuất, kinh doanh các sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ được hưởng ưu đãi miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp như doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, cụ thể là được miễn thuế 04 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 09 năm tiếp theo[4], hay doanh nghiệp khoa học và công nghệ được miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước theo quy định của pháp luật về đất đai. Doanh nghiệp khoa học và công nghệ còn được hưởng các ưu đãi về vay tín dụng và hỗ trợ hoạt động nghiên cứu, thương mại hóa kết quả khoa học và công nghệ[5].
2. Thực trạng pháp luật doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
Tính đến cuối năm 2020, Việt Nam với khoảng 810.000 doanh nghiệp thì chỉ có trên 540 doanh nghiệp khoa học và công nghệ[6]. Có thể thấy, tỷ lệ và số lượng doanh nghiệp khoa học và công nghệ còn thấp. Các doanh nghiệp khoa học và công nghệ được cấp giấy chứng nhận có kết quả khoa học và công nghệ chủ yếu ở một số lĩnh vực mũi nhọn như: Công nghệ sinh học (38,5%), công nghệ tự động hóa (20,6%), công nghệ vật liệu mới (9,8%), công nghệ thông tin (9,3%)[7]. Thực trạng này ảnh hưởng bởi các vấn đề pháp lý như:
Một là, pháp luật liên quan đến doanh nghiệp khoa học và công nghệ tại Việt Nam chưa đồng bộ, dẫn tới việc doanh nghiệp khoa học và công nghệ chưa được hưởng ưu đãi theo quy định. Cụ thể, nhiều doanh nghiệp khoa học và công nghệ chưa được hưởng những ưu đãi liên quan đến quyền sử dụng đất, được thuê đất, cơ sở hạ tầng với mức giá thấp nhất theo khung giá của Nhà nước tại địa phương nơi doanh nghiệp thuê, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nằm ngoài các khu công nghệ cao. Bên cạnh đó, chính sách thuế của Nhà nước đối với một số ngành, lĩnh vực hiện còn một số điểm chưa hợp lý đối với việc khuyến khích phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Ví dụ, quy định áp dụng mức thuế nhập nguyên liệu cao hơn mức thuế sản phẩm nhập khẩu của một số mặt hàng mà đại đa số các doanh nghiệp tại Việt Nam chưa sản xuất được.
Hai là, quy định pháp luật liên quan đến chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp khoa học và công nghệ còn thiếu, bên cạnh những chính sách ưu đãi về đăng ký doanh nghiệp khoa học và công nghệ, ưu đãi thuế… thì hệ thống pháp luật nước ta còn thiếu các văn bản quy định hướng dẫn chi tiết, liên ngành nên việc đưa các chính sách ưu đãi này vào thực tiễn còn gặp khó khăn, chưa thực sự hấp dẫn; điều kiện, thủ tục để được thụ hưởng một số chính sách ưu đãi còn gặp nhiều khó khăn, cơ quan nhà nước cấp phép sản xuất, lưu hành có lúc còn chậm, dẫn đến việc đấu thầu các dự án công của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ bị ảnh hưởng vì thiếu các quy định về định mức, đặc biệt là chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp. Bên cạnh đó, một số quy định của Nhà nước có tác dụng gián tiếp hỗ trợ thúc đẩy thị trường công nghệ, thương mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ, như xác nhận kết quả thực hiện nhiệm vụ không sử dụng ngân sách nhà nước; giao quyền sở hữu, sử dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ sử dụng ngân sách nhà nước gặp nhiều khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện...
Ba là, việc thực thi Luật Sở hữu trí tuệ tại nhiều địa phương chưa nghiêm túc, tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn diễn ra tại nhiều nơi. Điều này cũng làm hạn chế việc thu hút đầu tư cho doanh nghiệp khoa học và công nghệ tại Việt Nam. Bên cạnh đó, việc phân chia lợi nhuận thấp, không rõ ràng khi sử dụng, chuyển giao quyền sử dụng, chuyển nhượng, góp vốn bằng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước cũng có mặt hạn chế việc thu hút doanh nghiệp khoa học và công nghệ như: Lợi nhuận thu được từ việc sử dụng, chuyển giao quyền sử dụng, chuyển nhượng, góp vốn bằng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước được chia cho tác giả tối thiểu 30%; phần còn lại được phân chia giữa chủ sở hữu, cơ quan chủ trì, người môi giới theo quy định của Chính phủ[8].
Bốn là, về tổ chức hoạt động doanh nghiệp khoa học và công nghệ, để trở thành doanh nghiệp khoa học và công nghệ, các doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều rào cản như: Các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ tiềm lực tài chính hạn chế nên đầu tư cho nghiên cứu khoa học chứa nhiều rủi ro do thiếu nhân lực có trình độ; thiếu các tổ chức hỗ trợ, thiếu sự liên kết và điều kiện vật chất đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học, vì vậy, chưa mạnh dạn đầu tư cho khoa học và công nghệ. Ngoài ra, nhận thức về nghiên cứu khoa học còn hạn chế, đổi mới công nghệ và tạo ra sản phẩm mới chưa đúng mức, nguồn từ ngân sách nhà nước dành cho nghiên cứu khoa học còn ít; chưa chú trọng đến thương hiệu và sở hữu trí tuệ; các sản phẩm nghiên cứu khoa học chưa nổi trội về chất lượng sản phẩm nên không có thị trường để chuyển giao và ít đem lại nhuận cao cho doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
Năm là, bản chất hoạt động đầu tư sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hóa từ kết quả khoa học và công nghệ mang tính rủi ro, các sản phẩm nghiên cứu khoa học và công nghệ của doanh nghiệp không quá nổi trội hoặc không có thị trường tiêu thụ nên chưa mang lại lợi nhuận cao; số lượng các doanh nghiệp khoa học và công nghệ trên cả nước còn khá ít vì thiếu lực lượng hỗ trợ đồng hành nên một số quyền lợi của doanh nghiệp chưa được bảo đảm. Doanh nghiệp khoa học và công nghệ phải đáp ứng điều kiện quy định tỷ lệ doanh thu tối thiểu 30% khi thương mại hóa kết quả khoa học và công nghệ[9] làm hạn chế doanh nghiệp có tiềm năng để có thể thành doanh nghiệp khoa học công nghệ là rào cản mới đối với các doanh nghiệp khoa học và công nghệ; các kết quả khoa học và công nghệ sử dụng vốn nhà nước trong quy định về thủ tục giao quyền còn chưa rõ ràng và cụ thể, tốn nhiều thời gian và chi phí định giá; thiếu cán bộ, công chức chuyên trách thực hiện nhiệm vụ tư vấn, hướng dẫn hỗ trợ cho doanh nghiệp, chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ; các cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp chưa phát huy hiệu quả.
3. Một số giải pháp
Thứ nhất, đồng bộ hóa chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về khoa học và công nghệ, gồm: Luật Khoa học và công nghệ, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công và các văn bản hướng dẫn thi hành để bảo đảm thực thi được các chính sách hỗ trợ phát triển tổ chức trung gian; cơ chế giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước; cơ chế phân chia lợi nhuận thu được từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu… Xây dựng cơ chế giám sát thực thi Luật Sở hữu trí tuệ một cách nghiêm túc để giảm tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khoa học và công nghệ có môi trường để hoạt động theo mục đích của mình.
Ban hành văn bản quy định về tiêu chí, hướng dẫn điều kiện thành lập đối với cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp và đề xuất Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định về thẩm quyền, hồ sơ cấp giấy chứng nhận đối với loại hình tổ chức này để hỗ trợ thụ hưởng các ưu đãi đầu tư; tăng cường hỗ trợ các địa phương triển khai Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ về doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Hoàn thiện khung pháp lý, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính tạo tiền đề hỗ trợ và thúc đẩy doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo sớm gia nhập thị trường với thời gian và chi phí hợp lý.
Thứ hai, hoàn thiện quy định pháp luật về ưu đãi đối với doanh nghiệp khoa học và công nghệ, cụ thể như: Đổi mới chính sách thuế của Nhà nước đối với một số ngành, lĩnh vực để khuyến khích phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ, xây dựng các văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách đối với từng lĩnh vực để các nội dung ưu đãi được triển khai hiệu quả trong thực tiễn. Mở rộng mạng lưới liên kết hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ, xóa bỏ một số điểm không phù hợp với nhu cầu và thực tiễn của các địa phương, đặc biệt là các quy định liên quan đến hỗ trợ ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
Thứ ba, đẩy mạnh hoạt động phổ biến, tuyên truyền pháp luật khoa học và công nghệ. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần thường xuyên phổ biến, tuyên truyền để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các ngành, doanh nghiệp, người dân về vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong phát triển kinh tế - xã hội với các nội dung cụ thể như: Phổ biến các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước liên quan đến khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tổ chức các hội nghị, hội thảo, tập huấn về việc thực hiện các quy định, văn bản pháp lý liên quan đến chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ, thông tin tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng để góp phần lan tỏa tinh thần cho các doanh nghiệp tiềm năng và giúp cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhận thức đầy đủ trách nhiệm đối với phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
Thứ tư, không ngừng cải tiến công tác quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ để nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ tại cơ sở. Tập trung nguồn lực hỗ trợ thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ có tính cấp thiết, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội. Nhà nước cần hỗ trợ, hướng dẫn các doanh nghiệp có tiềm năng tiếp cận với các chương trình khoa học và công nghệ của quốc gia, các quỹ đổi mới công nghệ. Xây dựng quỹ hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo tại mỗi địa phương, hỗ trợ kịp thời các tổ chức, cá nhân có ý tưởng khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo hiệu quả.
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội
[1]. Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học và công nghệ (2020), Báo cáo tổng kết tình hình đăng ký và hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp khoa học và công nghệ năm 2019.
[2]. https://natec.gov.vn/giai-phap-phat-trien-doanh-nghiep-khoa-hoc-va-cong-nghe-thuc-day-ket-noi-vien-truong-va-phat-huy-vai-tro-cua-cac-hiep-hoi-doanh-nghiep/, truy cập ngày 02/12/2021.
[3]. Điều 6 Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ về doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
[4]. Điều 12, Điều 13, Điều 14 Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ về doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
[5]. Điều 12, Điều 13, Điều 14 Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ về doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
[6]. Tổng cục Thống kê (2020), Tổng quan kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2020.
[7]. Tổng cục Thống kê (2020), Tổng quan kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2020.
[8]. Điều 43 Luật Khoa học và công nghệ năm 2013.
[9]. Điều 6 Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ về doanh nghiệp khoa học và công nghệ.