1. Đặc điểm của chính sách pháp luật thi hành án dân sự ở một số quốc gia
Nghiên cứu chính sách pháp luật THADS ở một số quốc gia, có thể rút ra một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, khẳng định ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án
“Công lý chỉ có ý nghĩa khi và chỉ khi quyết định của Tòa án được thi hành” là nhận định được đưa ra tại Hội nghị “Thi hành quyết định của Tòa án trong thế giới Pháp ngữ” được tổ chức tại Paris, Pháp năm 2012. Nguyên tắc bảo đảm an toàn của luật pháp và bảo đảm hiệu lực điều chỉnh của nó trên thực tế trong một Nhà nước thượng tôn pháp luật chỉ ra rằng, cần có sự phân định giữa quyền lực của thẩm phán với tư cách là người thực hiện việc xét xử với quyền lực của cán bộ thi hành án (THA) với tư cách là người bảo đảm thực hiện quyết định của Tòa án. Nội hàm các khái niệm nguyên tắc pháp luật và sự an toàn của pháp lý có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm an toàn cho hệ thống pháp luật do mình ban hành, nhưng cán bộ THA lại giữ vị trí trung tâm. Ngoài ra, trong một nghiên cứu về vai trò của THADS trong bối cảnh cải cách tư pháp đối với yêu cầu phát triển kinh tế ở châu Âu, bà Viviane Reding - Phó Chủ tịch Ủy ban châu Âu cho rằng: “Một hệ thống tư pháp hiệu quả và độc lập là một yếu tố then chốt để một quốc gia có thể thu hút đầu tư và kinh doanh. Đó là lý do vì sao một quyết định tư pháp được thi hành kịp thời, hiệu quả lại trở nên quan trọng và cũng là lý do mà yêu cầu cải cách nền tư pháp ở mỗi quốc gia thành viên châu Âu được coi là một trong những yêu cầu quan trọng bắt buộc trong chiến lược phát triển kinh tế của châu Âu”.
Thứ hai, không có ưu thế tuyệt đối nào giữa việc lựa chọn mô hình tổ chức THADS công hoặc mô hình tổ chức THADS tư
Trước những khó khăn, phức tạp của công tác THADS nên nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đã nghiên cứu, cải cách để chuyển đổi lĩnh vực THADS, tìm kiếm mô hình tổ chức THADS tư nhân hoặc mô hình kết hợp giữa THADS tư nhân với THADS của Nhà nước. Từ những năm 2000, các nước có mô hình THADS tư nhân do thừa phát lại thực hiện như các nước vùng Baltic (Estonia, Latvia, Lithuania), một vài nước thuộc trung tâm châu Âu (Slovakia, Hungary) và tư nhân hóa ở một mức độ nhất định ở Poland, Czech Repulic. Nước chuyển đổi mô hình THA sang tư nhân sớm hơn được thực hiện ở Croatia từ những năm 1990, đạo luật THA được thông qua lần đầu tiên vào năm 1996, nhưng nó đã được sửa đổi 06 lần từ năm 1996 đến năm 2008. Tuy nhiên, việc chuyển đổi mô hình THADS ở Croatia đã gặp nhiều khó khăn và không được coi là mô hình THA hiệu quả vì nhiều vấn đề mới phát sinh như: Chi phí THA tăng cao; những khó khăn mới phát sinh liên quan đến đánh giá hiệu quả THA cũng như việc thu thập thông tin tài sản THA; hệ thống quản lý THA mới, yêu cầu thay đổi Hiến pháp và các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan; sự miễn cưỡng và không sẵn sàng hợp tác của các cơ quan hành chính với người làm công tác THA tư… Việc cải cách THA do thừa phát lại thực hiện rất khó đạt được đồng thời với các mục đích chính của yêu cầu THA, đó là tính hiệu quả, sự công bằng, yêu cầu chi phí THA hợp lý, đối với không những đương sự (người được THA, người phải THA), bên thứ ba có liên quan mà còn đối với cả xã hội. Yêu cầu của mô hình THA tư đòi hỏi năng lực, trình độ chuyên môn được đào tạo cao của người làm công tác THA, hiệu lực quản lý nhà nước, chất lượng tổ chức THA… Tuy nhiên, ở các nước chuyển đổi mô hình THA thì những yêu cầu này luôn luôn là một điểm yếu, nên đã có nhiều rủi ro, nguy hiểm phát sinh nhìn từ góc độ quản lý nhà nước và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Thứ ba, chất lượng, hiệu quả của công tác THADS phụ thuộc mang tính chất quyết định vào mức độ minh bạch thông tin tài sản THA
Việc có được quyền và lợi ích hợp pháp theo bản án, quyết định đã tuyên của Tòa án không phải luôn luôn đồng nghĩa với việc người đó sẽ dễ dàng và thuận lợi trong việc nhận lại được quyền lợi của mình, mà sau khi có bản án của Tòa án thì người được THA vẫn còn phải theo đuổi một hành trình đầy khó khăn và tiềm ẩn những rủi ro. Về vấn đề này, kết quả nghiên cứu của Tiến sỹ Wendy Kennett đã nhận định, nếu người phải THA có ý định chống lại việc THA thì người được THA sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc làm sáng tỏ thông tin về tài sản của họ và tài sản đất đai, động sản hoặc tiền ở ngân hàng của người phải THA có thể dễ dàng chuyển giao cho người thứ ba đứng tên. Từ thực trạng trên, tác giả khẳng định rằng, ở một số quốc gia sẽ có sự hiện diện của những hố đen “black holes” mà ở đó người bị kiện và tài sản của họ có thể sẽ biến mất. Sau nhiều năm nghiên cứu đi tìm giải pháp nâng cao hiệu quả công tác THADS, Giáo sư, Tiến sỹ luật học Juan Pablo Correa Delcasso, Trường Đại học Barcelona, Tây Ban Nha, từ năm 2005 đã cho rằng, tính hiệu quả của các phương pháp THADS phụ thuộc nhiều vào mức độ minh bạch thông tin tài sản của người phải THA hơn là xem xét về bản chất thẩm quyền THA của các mô hình THADS khác nhau.
Pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức lựa chọn phương án trao quyền cho cơ quan THADS trực tiếp yêu cầu người phải THA phải cung cấp thông tin về tài sản của mình. Theo đó, người được THA là người có quyền lựa chọn cơ quan có thẩm quyền THA hoặc nhân viên Tòa án tổ chức THA với các yêu cầu THA của mình. Vì vậy, người được THA mới là người kiểm soát và quyết định các biện pháp tổ chức THA, ví dụ, thu giữ ô tô, nắm giữ giấy tờ thế chấp bất động sản, bán đấu giá bất động sản... Để thuận lợi cho người được THA trong việc dễ dàng lựa chọn biện pháp THA phù hợp, thì người phải THA phải có trách nhiệm cung cấp một bản kê khai chi tiết về tài sản của mình cho người có thẩm quyền THA theo lựa chọn của người được THA. Mục đích của yêu cầu này là cung cấp cho người được THA biết thông tin về những tài sản có thể bị kê biên. Người phải THA phải tuyên thệ và chịu trách nhiệm về những thông tin tài sản do mình cung cấp (Điều 836, Điều 883 Bộ luật Tố tụng dân sự Đức). Đối với các yêu cầu THA về tiền, pháp luật THADS Cộng hòa Liên bang Đức quy định người phải THA phải cung cấp thông tin về tất cả các loại tài sản thuộc về người phải THA. Đồng thời, trong danh sách tài sản được kê khai, người phải THA phải cung cấp đầy đủ các lý do cũng như những bằng chứng đối với thông tin về tài sản được cung cấp.
Ngoài ra, theo quy định của đoạn 1 khoản 2 Điều 802c Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 1 Điều 284 Đạo luật về Thuế của Đức thì người phải THA còn phải cung cấp danh sách tất cả giao dịch (chuyển nhượng, mua bán, tặng cho...) với những người có quan hệ gần gũi trong thời gian hai năm trước đó tính đến thời điểm người phải THA cung cấp bản kê khai thông tin tài sản cho cơ quan THA. Đối với các loại dịch vụ được cung cấp miễn phí bởi người phải THA thì họ cũng phải kê khai tất cả các giao dịch này trong thời gian bốn năm trước đó tính đến thời điểm cung cấp bản kê khai thông tin tài sản cho cơ quan THA. Bản kê khai chi tiết tài sản phải được đính kèm với một bản tuyên bố thay cho một lời tuyên thệ rằng tất cả thông tin trong đó là chính xác bằng tất cả sự hiểu biết và kiến thức của mình.
Như đã phân tích ở trên, theo pháp luật THADS của Đức, đối với các yêu cầu THA về tiền, người phải THA phải có trách nhiệm cung cấp thông tin về tài sản và tình hình tài chính của mình cho chấp hành viên theo yêu cầu. Nếu người phải THA không đến văn phòng của chấp hành viên theo lịch hẹn để cung cấp thông tin về tài sản và tình hình tài chính của mình mà không có lý do chính đáng hoặc từ chối cung cấp thông tin về tài sản và tình hình tài chính của mình theo Điều 802c Bộ luật Tố tụng dân sự Đức, mà không đưa ra được bất kỳ một lý do phù hợp nào thì họ sẽ bị bắt giữ để buộc cung cấp các thông tin theo yêu cầu. Người phải THA có thể sẽ bị bắt giam giữ trên cơ sở lệnh bắt giữ được phát hành bởi Tòa án theo yêu cầu của người được THA (biện pháp cưỡng chế giam giữ) cho đến khi họ cung cấp được đầy đủ thông tin về tài sản và tình trạng tài chính của mình, thời hạn tối đa của việc giam giữ này là 06 tháng. Lệnh bắt giữ phải được kiểm tra chặt chẽ bởi thẩm phán. Lệnh bắt giữ không cần thiết phải chuyển cho người phải THA trước khi thực hiện việc bắt giữ. Một bản photocopy đã được xác nhận của lệnh bắt giữ sẽ được chuyển giao trực tiếp cho người phải THA tại thời điểm bắt giữ. Người có thẩm quyền bắt giữ người phải THA trong trường hợp này là chấp hành viên.
2. Những nội dung chính sách pháp luật thi hành án dân sự ở một số quốc gia có thể vận dụng vào Việt Nam
Từ rất lâu, việc nghiên cứu về THADS nói chung, pháp luật THADS nói riêng đã được đầu tư công phu và có hệ thống trên phạm vi quốc tế. Do đó, đến nay, cơ bản chính sách, thể chế và mô hình tổ chức, hoạt động THADS ở nhiều nước (đặc biệt là ở khu vực các nước châu Âu) đã có nhiều bước tiến vượt bậc cả về việc mở rộng nội hàm các khái niệm cùng với yêu cầu về quy trình, thủ tục THA, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc bảo vệ nhân quyền, bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, thông qua việc thi hành có hiệu quả trong thời gian hợp lý các bản án, quyết định của Tòa án. Từ những kết quả nghiên cứu có giá trị nêu trên, có những nghiên cứu, đề xuất, quan điểm khoa học của nước ngoài về chính sách pháp luật THADS đã được đề cập đến trong các chủ trương, chính sách, pháp luật của Việt Nam, tuy nhiên, có những quan điểm khoa học về THADS mới đối với Việt Nam cần tiếp tục nghiên cứu để vận dụng hợp lý vào trong điều kiện hoàn cảnh của Việt Nam, cụ thể có thể chia làm các nhóm đề xuất vận dụng sau đây:
Một là, yêu cầu ưu tiên bảo đảm thi hành có hiệu quả mọi bản án, quyết định của Tòa án
Như đã phân tích ở trên, cho đến nay, nhiều công trình nghiên cứu khoa học và trên các diễn đàn pháp lý quốc tế đều thừa nhận khẳng định có tính nguyên tắc đó là “công lý chỉ có ý nghĩa khi và chỉ khi quyết định của Tòa án được thi hành”. Như vậy, yêu cầu bảo đảm thi hành bản án, quyết định của Tòa án có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó liên quan đến sự bảo đảm công lý của chế độ. Ở Việt Nam, cơ sở chính trị để bảo đảm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án đã được đề cập trong nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng. Trên cơ sở đó, Hiến pháp năm 2013 cũng đã quy định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Trên cơ sở nghị quyết của Đảng và quy định của Hiến pháp, các bộ luật, luật có liên quan đều có điều khoản bảo đảm hiệu lực bản án, quyết định. Mặc dù vậy, thực tế vẫn còn có những quan điểm dao động, chưa nhất quán về chủ trương này, đặc biệt là trong những trường hợp có xung đột, mâu thuẫn pháp luật giữa pháp luật THADS với các lĩnh vực pháp luật khác. Dưới góc độ lý luận, có những quan điểm so sánh, đối chiếu pháp luật theo thiên hướng chỉ chú trọng bảo vệ quyền lợi của người phải THA và người thứ ba ngay tình khi họ thực hiện các giao dịch kinh tế, dân sự với người phải THA, mà đối tượng trong giao dịch này chính là tài sản lẽ ra phải được sử dụng để THA nhưng người phải THA tìm cách tẩu tán thông qua việc thực hiện các giao dịch này, hậu quả là bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực có nguy cơ không được thi hành vì tài sản đã bị tẩu tán. Ngoài ra, trên thực tế vẫn còn rất nhiều bản án, quyết định của Tòa án được chuyển liên tiếp sang các năm tiếp theo mà không thể tổ chức thi hành được vì nhiều nguyên nhân khác nhau.
Từ thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm chính sách pháp luật THADS ở một số quốc gia cho thấy, chủ trương của Đảng về bảo đảm thi hành mọi bản án, quyết định của Tòa án là hoàn toàn có cơ sở và phải được tiếp tục quy định, hoàn thiện, nhấn mạnh trong các văn kiện, văn bản pháp luật của Nhà nước theo hướng mới, đó là quy định mọi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án có giá trị ưu tiên và phải được tổ chức thi hành hiệu quả trên thực tế. Các quy định pháp luật chuyên ngành khác, mâu thuẫn hoặc ngược lại với nội dung quy định của bản án đều không có giá trị.
Việc bảo đảm hiệu lực thi hành của bản án, quyết định của Tòa án còn có mối quan hệ phát triển kinh tế. Các nhà khoa học pháp lý châu Âu đã chỉ ra rằng, “một hệ thống tư pháp hiệu quả và độc lập là một yếu tố then chốt để một quốc gia có thể thu hút đầu tư và kinh doanh”. Quan điểm này cũng là một trong những gợi mở nhằm tiếp tục hoàn thiện chủ trương, đường lối phát triển kinh tế ở Việt Nam trong thời gian tới. Nhận thức về mối quan hệ giữa hiệu quả công tác THADS với việc xây dựng thành công nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, ngày 03/6/2017, Ban Chấp hành Trung ương đã có Nghị quyết số 11-NQ/TW về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó đã khẳng định: Phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp; nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả của các thiết chế giải quyết tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại, trọng tâm là các hoạt động hòa giải, trọng tài thương mại và Tòa án nhân dân các cấp, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp; xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật về kinh tế; tăng cường tính độc lập của hệ thống tư pháp các cấp trong xét xử, THADS, kinh tế. Do đó, thời gian tới, cần đẩy mạnh việc nghiên cứu để ứng dụng có hiệu quả chủ trương của Nghị quyết này trong thực tiễn để nâng cao hiệu quả công tác THADS.
Hai là, về trách nhiệm cung cấp thông tin tài sản THA
Có thể nói, việc thiếu thông tin về tài sản THA của người phải THA, việc người phải THA tẩu tán tài sản để trốn tránh nghĩa vụ THA được thực hiện rất tinh vi, có trường hợp chuyển nhượng tài sản trước khi có bản án hoặc sau khi có bản án nhưng trước khi cơ quan THADS tổ chức thi hành, dẫn tới bản án không có tài sản để thi hành, ảnh hưởng tới việc bảo vệ quyền lợi của người được THA đang xảy ra trên thực tế trong thời gian qua. Do vậy: (i) Cần bổ sung quy định cụ thể về thời điểm và khoảng thời gian mà người phải THA phải kê khai tài sản theo hướng mở rộng hơn, không phải chờ đợi sau khi hết thời gian tự nguyện THA thì người phải THA mới phải kê khai các thông tin tài sản THA như quy định của pháp luật hiện hành. Quy định này để loại trừ các giao dịch “giả tạo” nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ THA được thực hiện trước hoặc sau khi có bản án, quyết định của Tòa án giữa người phải THA với bên thứ ba. (ii) Cần sửa đổi quy định tại Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự một cách cụ thể hơn và đưa quy định này vào trong Luật Thi hành án dân sự, theo đó, việc chuyển đổi, tặng cho, bán, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố tài sản của người phải THA cho người khác không chỉ quy định hạn chế kể từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật như quy định hiện hành mà mở rộng hơn kể từ khi có bản án, quyết định (kể cả chưa có hiệu lực) để tránh trường hợp tẩu tán tài sản. Đồng thời, bổ sung điều khoản khác vào trong luật về trách nhiệm kê khai thông tin tài sản THA, thông tin các giao dịch mà người phải THA đã thực hiện với bên thứ ba theo kinh nghiệm của pháp luật tố tụng dân sự Đức. (iii) Bổ sung quy định yêu cầu người phải THA phải liệt kê chi tiết tất cả các giao dịch giữa người phải THA với những người có quan hệ gần gũi với họ đã góp phần ngăn chặn người phải THA tẩu tán tài sản cho những người này thông qua các giao dịch mà bề ngoài có vẻ như là hợp pháp để trốn tránh nghĩa vụ THA. (iv) Nên cân nhắc bổ sung quy định về áp dụng biện pháp cưỡng chế tạm giữ người phải THA để buộc họ thực hiện nghĩa vụ kê khai thông tin về tình trạng tài sản của mình cho cơ quan THA. Trách nhiệm phải cung cấp thông tin tài sản và tình hình tài chính là nghĩa vụ pháp lý được đặt lên trước tiên đối với người phải THA, vì hơn ai hết, họ là người hiểu rõ nhất thực trạng tài sản của mình và là người phải đang chấp hành nghĩa vụ từ bản án, quyết định của Tòa án. Nếu không cung cấp hoặc từ chối hợp tác với cơ quan THA mà không có lý do chính đáng thì hoặc là hành vi gian dối, thiếu trung thực hoặc là hành vi cố tình trốn tránh thực hiện nghĩa vụ pháp lý. (v) Bổ sung quyền hạn của chấp hành viên, để thực hiện trực tiếp, nhanh chóng nhiệm vụ THA, pháp luật nên trao cho họ được quyền bắt giữ người phải THA trên cơ sở quyết định của Tòa án. Quyết định bắt giữ cũng không cần phải được thông báo trước mà sẽ chuyển cho người phải THA ngay khi họ bị bắt giữ. Những quy định trao quyền thực chất cho chấp hành viên THA vừa bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của Tòa án, vừa bảo đảm quy trình THA được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả mà không phải thông qua nhiều khâu trung gian hoặc các thủ tục hành chính, giấy tờ phức tạp khác. Qua đó nhằm răn đe, nâng cao ý thức tự giác chấp hành án của người phải THA, bảo đảm niềm tin của người dân vào hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án.
Ba là, về khả năng lựa chọn và hoàn thiện mô hình THADS ở Việt Nam trong thời gian tới
Kinh nghiệm từ những nước chuyển đổi mô hình từ THADS công do cơ quan nhà nước tổ chức thực hiện sang mô hình tư hoặc kết hợp giữa mô hình công và mô hình tư (ở mô hình này có những ưu điểm, tiến bộ riêng so với mô hình hoàn toàn do tư nhân thực hiện) đã chỉ ra một số kinh nghiệm quý báu như: (i) Việc lựa chọn mô hình THA như thế nào cho hiệu quả là hoàn toàn phụ thuộc vào thể chế chính trị, truyền thống pháp luật, hệ thống luật pháp hiện hành và đặc điểm văn hóa của mỗi nước. (ii) Chưa có kết luận rõ ràng, đầy đủ về mô hình THA này (tư nhân hoặc nhà nước hoặc mô hình kết hợp) là có ưu điểm hoàn toàn nổi trội hơn mô hình kia. (iii) Tuy nhiên, qua kinh nghiệm từ những nước đã thực hiện việc chuyển đổi, cải cách lĩnh vực THADS cho thấy, có rất nhiều khó khăn, vướng mắc phát sinh từ mô hình THADS tư nhân, thậm chí có những nước đã thất bại khi thí điểm mô hình này, ví dụ vấn đề cung cấp thông tin tài sản THA; phí THA như thế nào cho hợp lý để bảo vệ quyền lợi của các bên đương sự, của Nhà nước. (iv) Các vấn đề tham nhũng, tiêu cực mới phát sinh liên quan đến việc thành lập và hoạt động của Văn phòng THADS tư là thực tiễn đã xảy ra ở các nước thí điểm mô hình THADS tư nhân. (v) Mặc dù tư nhân hóa THADS nhưng một số lĩnh vực, quy trình, thủ tục, công việc THA phải thuộc độc quyền do Nhà nước thực hiện, ví dụ việc chuyển giao một số loại tài liệu, giấy tờ, việc trao thẩm quyền thực hiện công việc THA trong những lĩnh vực cụ thể được xác định... Yêu cầu của mô hình THA tư đòi hỏi năng lực, trình độ chuyên môn được đào tạo cao của người làm công tác THA, hiệu lực quản lý nhà nước, chất lượng tổ chức THA… tuy nhiên, ở các nước chuyển đổi mô hình THA thì những yêu cầu này luôn luôn là một điểm yếu, nên đã có nhiều rủi ro, nguy hiểm phát sinh nhìn từ góc độ quản lý nhà nước và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. (vi) Việc trao thẩm quyền cho thừa phát lại tổ chức THA theo một phạm vi nhất định (địa hạt, loại việc) là gần như không thể thực hiện được, còn nếu duy trì quyền lựa chọn vụ việc để thi hành như hiện nay là chưa phù hợp với nguyên tắc tổ chức xây dựng Nhà nước pháp quyền, ở đó, mọi tổ chức, cá nhân đều phải thực hiện theo quy định của pháp luật, không có quyền lựa chọn làm hoặc không làm. Từ những lý do trên cho thấy, mô hình THA tư là không phù hợp, khó đạt được đồng thời các mục đích chính của yêu cầu THA, đó là tính hiệu quả, sự công bằng, yêu cầu chi phí THA hợp lý, đối với không những đương sự (người được THA, người phải THA) mà cả bên thứ ba có liên quan.
Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật của một số quốc gia về mô hình tổ chức THADS và thực tế ưu điểm, hạn chế trong mô hình tổ chức THADS ở Việt Nam (hệ thống THADS của Nhà nước và hệ thống các Văn phòng Thừa phát lại) cho thấy, Việt Nam cần tiếp tục đầu tư hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan THADS của Nhà nước, tăng thẩm quyền cho chấp hành viên và cho cơ quan THADS, đồng thời, không trao thẩm quyền tổ chức THA cho thừa phát lại như hiện nay. Theo đó, thừa phát lại nên được mở rộng theo hướng chuyên nghiệp hóa một số lĩnh vực, công việc dịch vụ chính trong THA như tống đạt giấy tờ của Tòa án và của cơ quan THADS cho đương sự; lập vi bằng có giá trị chứng cứ chứng minh trong xét xử và các công việc khác theo quy định của pháp luật. Bởi vì, tổ chức THADS và cưỡng chế mang tính chất quyền lực nhà nước, không thể giao cho một doanh nghiệp hoạt động dịch vụ thay mặt Nhà nước thực hiện quyền này, những vi phạm về quyền con người cũng rất dễ xảy ra xuất phát từ kinh nghiệm của những nước chuyển đổi mô hình THADS từ mô hình công sang mô hình tư.
Tổng cục Thi hành án dân sự
ThS. Phạm Quốc Nam
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An