Abstract: The article deals with the practice of recognition of marriage established in overseas between Vietnamese female citizen and foreign male citizen in case of marital status violation according to the Law on Marriage and Family of Vietnam of 2014, at the same time, proposes solutions for resolving this problem towards the protection of rights and interests of women and children in marital and family relationships.
Ngày nay, khi thế giới ngày càng “phẳng” đi, các cá nhân tự do di chuyển, sống và làm việc giữa các quốc gia đã tạo nên sự giao thoa, tiếp biến đa dạng, dung hòa trong sự khác biệt giữa các nền văn hóa. Trong sự cởi mở đó, quan hệ hôn nhân của công dân Việt Nam với công dân nước ngoài xuất hiện ngày càng nhiều. Sau kết hôn, công dân Việt Nam đã có sự hòa nhập nhanh chóng vào cộng đồng văn hóa - xã hội nước sở tại. Họ luôn giữ mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó mật thiết với quê hương Việt Nam. Tuy nhiên, các quốc gia vẫn có những bản sắc riêng, do đó, có sự khác biệt, không thống nhất về văn hóa, tôn giáo, đặc biệt là hệ thống pháp luật của mỗi nước là khác nhau và chế độ hôn nhân - gia đình của mỗi quốc gia cũng có khác nhau, nên đã xuất hiện xung đột pháp luật trong việc công nhận hôn nhân hợp pháp tại Việt Nam.
1. Thực tiễn việc công nhận hôn nhân được xác lập ở nước ngoài trong trường hợp vi phạm chế độ hôn nhân theo pháp luật Việt Nam
Điển hình là xung đột pháp luật về chế độ hôn nhân gia đình một vợ - một chồng[1] theo pháp luật Việt Nam và chế độ hôn nhân đa thê[2] của nam công dân có tôn giáo Islam[3]ơ. Theo đó, nam công dân có tôn giáo Islam tại các quốc gia như Malaysia, Indonesia, các quốc gia Trung Đông... có thể kết hôn đồng thời với bốn phụ nữ. Hệ quả pháp lý của vấn đề này là nữ công dân Việt Nam sẽ không thể thực hiện được thủ tục công nhận hôn nhân được xác lập ở nước ngoài tại Việt Nam vì vi phạm chế độ hôn nhân một vợ - một chồng, nếu ngay tại thời điểm kết hôn người chồng còn tồn tại hôn nhân với người phụ nữ khác.
Hiện nay, căn cứ để công nhận hôn nhân được xác lập ở nước ngoài mà không đáp ứng được điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam là Nghị định số 126/2014/NĐ-CP4 và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP[5]. Theo đó, khoản 1 Điều 36 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP quy định theo hướng “mở” công nhận việc kết hôn mà hậu quả của vi phạm đó đã được khắc phục hoặc việc công nhận kết hôn là có lợi để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em. Quy định này thể hiện sự tiến bộ trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam xuất phát từ tinh thần nhân đạo sâu sắc. Tuy nhiên, quy định trên để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em lại không thể thực hiện được trên thực tế do có mâu thuẫn với quy định tại Nghị định số 123/2015/NĐ-CP. Theo khoản 1 Điều 34 Nghị định này về điều kiện ghi vào sổ hộ tịch việc kết hôn của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước ngoài là không vi phạm điều cấm tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Vấn đề mâu thuẫn giữa quy định của pháp luật hộ tịch và quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình trong việc công nhận hôn nhân được xác lập ở nước ngoài mà vi phạm điều kiện kết hôn trên thực tế đã dẫn đến việc cơ quan nhà nước, công chức có thẩm quyền áp dụng pháp luật luôn lựa chọn áp dụng pháp luật hộ tịch. Theo đó, không thực hiện thủ tục công nhận hôn nhân được xác lập ở nước ngoài cho trường hợp vi phạm về điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2. Những hậu quả pháp lý đối với phụ nữ và trẻ em sinh ra trong cuộc hôn nhân không được công nhận hôn nhân tại Việt Nam nhưng đã được xác lập việc kết hôn ở nước ngoài
- Về quyền tài sản tại Việt Nam: Nếu hai vợ chồng có phát sinh tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn hôn nhân, sau đó xảy ra tranh chấp với người vợ là nữ công dân Việt Nam hoặc người chồng mất đi mà không có di chúc thừa kế thì pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam cũng không thể áp dụng để phân chia phần tài sản này, chỉ có thể áp dụng pháp luật dân sự để giải quyết. Như vậy, có thể thấy, phần thiệt thòi rất lớn thuộc về phía nữ công dân và trẻ em Việt Nam trong trường hợp này.
- Về quyền nhân thân: Trong đời sống xã hội, mọi phụ nữ khi đi đến hôn nhân đều có tâm lý mong muốn được luật pháp và xã hội công nhận hôn nhân hợp pháp. Về pháp lý, họ không phải là vợ chồng, không có cơ sở pháp lý ràng buộc họ phải thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đối với nhau trong quan hệ hôn nhân ở Việt Nam.
- Về quyền ly hôn: Công dân Việt Nam không được công nhận hôn nhân, do đó, không thể thực hiện thủ tục ly hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam.
- Về bảo hộ công dân ở nước ngoài: “Pháp luật chỉ bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình nếu phù hợp với pháp luật Việt Nam”[6]. Như vậy, trong trường hợp này, nếu có xảy ra tranh chấp ở nước ngoài mà phần bất lợi thuộc về phía phụ nữ và trẻ em Việt Nam thì Nhà nước Việt Nam không thể bảo hộ công dân mình vì không phù hợp Luật Hôn nhân và gia đình.
- Đối với trẻ em: Rất khó có thể ghi tên cha trong giấy khai sinh do phải thực hiện một số kỹ thuật y tế (xét nghiệm ADN) để xác định cha con, mà việc này là không thể khi cha mẹ trẻ đã ly hôn và trở về Việt Nam. Thực tế, có một số lượng lớn (theo số liệu thống kê, tỉnh Hậu Giang là 336[7] và tỉnh Bình Dương 51 trường hợp[8]) trẻ theo mẹ về Việt Nam không có giấy tờ tùy thân, không thể khai sinh, không xác định được quốc tịch, ảnh hưởng đến việc hưởng bảo hiểm y tế của trẻ dưới 6 tuổi, học tập tại trường công lập, sự phát triển bình thường về mặt tâm sinh lý…
3. Một số kiến nghị hướng đến việc bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em
Các kiến nghị này chỉ nhằm hướng đến mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của phụ nữ và trẻ em Việt Nam - những chủ thể yếu thế trong quan hệ hôn nhân gia đình, hoàn toàn không đề xuất việc hợp thức hóa hôn nhân đa thê trên lãnh thổ Việt Nam.
Thứ nhất, kiến nghị cho phép công nhận hôn nhân được xác lập ở nước ngoài cho một số trường hợp đặc biệt
Trường hợp đặc biệt là trường hợp không vi phạm quy định của pháp luật nước ngoài về hôn nhân đa thê, nơi người chồng có quốc tịch và là nơi người phụ nữ Việt Nam và người chồng thực hiện đăng ký kết hôn, nhưng lại vi phạm quy định của pháp luật Việt Nam, cụ thể là chế độ hôn nhân một vợ - một chồng. Thực hiện nghiệp vụ ghi chú việc kết hôn theo hướng “mở”, tức là về mặt nghiệp vụ vẫn tiến hành công nhận hôn nhân được xác lập ở nước ngoài có vi phạm chế độ hôn nhân một vợ - một chồng. Vì nếu theo quy định của pháp luật hộ tịch, sẽ không có cơ sở bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của nữ công dân Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam trong quan hệ hôn nhân và gia đình nếu không phù hợp với pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. Việc công nhận hôn nhân được xác lập ở nước ngoài này không phải hợp thức hóa vấn đề đa thê trên lãnh thổ Việt Nam, mà là ghi nhận lại sự kiện hôn nhân đã xảy ra ở nước ngoài để có cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam.
Thứ hai, ký kết hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình
Trong giai đoạn hiện nay, cần tập trung ký kết hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và một số quốc gia cho phép hôn nhân đa thê, mà điển hình là Liên bang Malaysia - nơi có phát sinh số lượng tương đối lớn việc kết hôn giữa nữ công dân Việt Nam và nam công dân nước này (khoảng 7.000 trường hợp)9. Theo đó, hai quốc gia cùng tôn trọng chế độ hôn nhân của nhau. Việt Nam có thể công nhận hợp đồng hôn nhân giữa nữ công dân Việt Nam và nam công dân của quốc gia có chế độ đa thê được lập tại nước ngoài. Trên nguyên tắc dùng hợp đồng hôn nhân chỉ để giải quyết các vấn đề về quyền tài sản và quyền nhân thân trong hôn nhân nếu có tranh chấp phát sinh tại Việt Nam. Đồng thời, cho phép bảo trợ toàn diện, hỗ trợ pháp lý cho công dân Việt Nam khi phát sinh các sự kiện pháp lý liên quan đến hôn nhân gia đình tại các quốc gia có phát sinh sự kiện pháp lý nêu trên.
Thứ ba, hợp đồng hôn nhân
Hợp đồng hôn nhân theo quy định của tôn giáo10 và pháp luật thế tục tại các quốc gia có tôn giáo Islam và công nhận hôn nhân đa thê là công cụ hữu hiệu để các công dân Việt Nam tự bảo vệ trong cuộc sống hôn nhân tại nước ngoài. Mục tiêu là giải quyết một số vấn đề cơ bản phát sinh trước, trong và sau hôn nhân tại Tòa án tôn giáo Islam. Các nữ công dân Việt Nam cần được trang bị kiến thức về hợp đồng hôn nhân trước khi đăng ký kết hôn với nam công dân có tôn giáo Islam.
Để sử dụng hợp đồng hôn nhân tại Việt Nam, trước hết pháp luật Việt Nam cần cho phép nữ công dân Việt Nam thực hiện thủ tục công nhận hôn nhân được xác lập ở nước ngoài mà vi phạm chế độ hôn nhân một vợ - một chồng theo quy định của pháp luật Việt Nam. Đối với trường hợp này thì chỉ dùng thủ tục công nhận hôn nhân được xác lập ở nước ngoài cho việc bảo vệ quyền nhân thân, quyền tài sản của phụ nữ và trẻ em. Đồng thời, hợp đồng hôn nhân theo pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam tồn tại dưới dạng văn bản thỏa thuận chung giữa hai vợ chồng về chế độ tài sản trước khi kết hôn, được quy định tại Điều 48 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Như vậy, pháp luật Việt Nam đã cho phép thỏa thuận về tài sản, nhưng còn bỏ ngỏ quy định về quyền nhân thân. Để hợp đồng hôn nhân được lập tại nước ngoài không xung đột với pháp luật Việt Nam và có thể công nhận giá trị pháp lý trên lãnh thổ Việt Nam, thì pháp luật hôn nhân gia đình cần sớm công nhận hợp đồng hôn nhân với đầy đủ các quy định về quyền tài sản, quyền nhân thân.
Thứ tư, dịch thuật và công bố quy định về pháp luật tôn giáo Islam và pháp luật các nước cho phép hôn nhân đa thê
Qua thực tiễn công tác, tác giả nhận thấy việc hiểu biết về pháp luật nước sở tại nơi kết hôn của nữ công dân Việt Nam còn nhiều hạn chế. Từ đó, họ chưa ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình, đó là nguyên nhân chính dẫn đến nhiều hành vi vi phạm pháp luật hoặc không được thụ hưởng những quyền chính đáng mà lẽ ra mình được hưởng, được biết về môi trường xã hội, tôn giáo, pháp luật đất nước sẽ đến định cư. Hướng đến mục tiêu cung cấp đầy đủ kiến thức pháp luật cho nữ công dân Việt Nam trước khi kết hôn11, theo đó, phải giải thích rõ cho nữ công dân Việt Nam biết về những phong tục tập quán khác lạ và quy định pháp luật, điều kiện nhập cư, sinh sống tại nước ngoài trước khi kết hôn. Vì vậy, Bộ Tư pháp sớm phối hợp, tiến hành dịch thuật văn bản Luật Tôn giáo Islam, Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình của một số quốc gia có nữ công dân Việt Nam kết hôn và sinh sống chiếm tỷ lệ cao, ra ngôn ngữ tiếng Việt. Đồng thời, tích cực sưu tầm và lược dịch các quy định về phong tục tập quán, văn hóa, lối sống, mối quan hệ giữa các thành viên trong hệ gia đình Islam để dùng làm cẩm nang cho cán bộ tư pháp - hộ tịch, trợ giúp viên pháp lý, cán bộ hội - đoàn thể khi thực hiện nghiệp vụ, thực hiện công tác xã hội có thể tư vấn, trợ giúp pháp lý cho công dân đang có ý định kết hôn với công dân quốc gia có chế độ đa thê.
Các trường hợp hôn nhân có yếu tố nước ngoài luôn là chủ đề nóng cần được thảo luận thường xuyên để tìm ra hướng giải quyết thích hợp nhất theo yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn đặt ra. Trong đó, vấn đề quan trọng là nghiên cứu và xây dựng đầy đủ các chế định pháp lý nhằm thông qua đó đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của công dân Việt Nam, xử lý hài hòa các mối quan hệ hôn nhân do xung đột pháp luật giữa các quốc gia có quan điểm pháp luật trái ngược với quan điểm pháp luật của Việt Nam về hôn nhân và gia đình nhưng không gây ra những ảnh hưởng bất lợi đối với các hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế nói chung. Thực trạng pháp lý trên cần được nhìn nhận và giải quyết theo hướng bảo vệ quyền lợi của nữ công dân Việt Nam và trẻ em là con được sinh ra trong mối quan hệ hôn nhân của họ.
Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương
[1]. Khoản 1 Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định hôn nhân tiến bộ một vợ, một chồng.
[2]. Mục 23 Polygamy của Luật Gia đình Islam Malaysia.
[3]. Islam: Tên gọi chính thức, thống nhất của tôn giáo Hồi giáo, trong bài viết tác giả dùng từ “Islam” để biểu thị tôn giáo Hồi giáo.
[4]. Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ về điều kiện, hình thức công nhận việc kết hôn của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước ngoài.
[5]. Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch.
[6]. Khoản 3 Điều 121 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[7]. Http://ctpn.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi-kinh-nghiem.aspx?ItemID=36, 26/2/2017.
[8]. Báo cáo số 110/BC-UBND ngày 10/8/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương về đánh giá thực trạng tình hình giải quyết vấn đề quốc tịch, hộ tịch của trẻ em là con của công dân Việt Nam với người nước ngoài cư trú trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
[9]. Công văn số 3238/CV-LS-LSNN ngày 06/11/2015 của Cục Lãnh sự - Bộ Ngoại giao về việc tình hình cô dâu Việt Nam tại Malaysia.
[10]. Xuất phát từ thuật ngữ Nikah11 hôn nhân được định nghĩa là một hợp đồng có mục đích để có được và sở hữu một thú vui. Và kinh Koran cũng chỉ ra rằng, đối với phụ nữ ly hôn, hỗ trợ tài chính nên được chu cấp một cách hợp lý, đó là nghĩa vụ của người đàn ông chân chính. Vì vậy, mới xuất hiện dạng hợp đồng hôn nhân trong hôn nhân của người Islam. Kinh Koran: Surah al-Baqarah câu 221, 230, 232; Surah al-Nisa câu 3, 22, 25, câu Surah an-Nur 3, 32, 33, Surah al-Ahzab câu 49.
[11]. Công văn số 5780/HTQTCT-HT ngày 12/11/2015 của Cục Hộ tịch, Quốc tịch, Chứng thực - Bộ Tư pháp về việc công dân Việt Nam kết hôn tại Malaysia.