Theo số liệu thống kê, từ năm 2010 đến năm 2014, trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh xảy ra 30.344 vụ án xâm phạm sở hữu (mỗi năm xảy ra khoảng 6.000 vụ). Số vụ án qua các năm chủ yếu là tăng lên, chỉ cá biệt trong năm 2014 là giảm 551 vụ so với năm 2013. Chiếm tỷ lệ lớn nhất trong số vụ án nói trên là “trộm cắp tài sản” (18.891 vụ, chiếm 62,26%), tiếp đó là “cướp giật tài sản (7.901 vụ, chiếm 26,04%); cướp tài sản (1.883 vụ, chiếm 6,04%); lừa đảo chiếm đoạt tài sản (1.004 vụ, chiếm 3,31%), lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (chiếm 4,12%)... Thực tế này phần nào đã phản ánh tính chất manh động, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của người phạm tội và cả những yếu tố thuộc về người bị hại như sự nhẹ dạ cả tin, sự lơi lỏng, sơ hở trong quá trình quản lý, chiếm giữ và sử dụng tài sản đã tạo điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm quyền sở hữu tài sản. Qua nghiên cứu thực tiễn công tác phòng ngừa và điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu, tỷ lệ điều tra, khám phá làm rõ các vụ án này của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội là 16.291 vụ (chiếm tỷ lệ 53,69%) với 22.454 bị can. Với tỷ lệ khám phá thấp như trên, vô hình chung đã làm cho tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở TP. Hồ Chí Minh thêm phần phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ xấu, đồng thời, làm giảm uy tín và lòng tin của nhân dân vào hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Tội phạm xâm phạm sở hữu chiếm tỷ lệ cao trong tổng số các vụ phạm tội hình sự và có đặc điểm nổi bật sau đây:
Một là, đa số đối tượng gây án có trình độ học vấn thấp
Trong số 22.454 bị can trong các vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh từ năm 2010 đến năm 2014, có 21.387 bị can là nam giới (chiếm 95,25%). Việc nam giới vẫn chiếm số lượng lớn như trên cũng là điều dễ hiểu vì họ thường có khí chất nóng nảy, manh động và bộc trực hơn so với nữ giới. Bị can là nữ có 1.067 người, chủ yếu là do tham gia phạm tội trong các băng nhóm có đối tượng chỉ huy, cầm đầu. Về trình độ văn hóa, số bị can mù chữ chiếm tới 47,02% (10.558 bị can); trình độ tiểu học có 7.187 bị can (chiếm 32,01%), trung học cơ sở có 4.709 bị can (chiếm 20,97%). Phần lớn các đối tượng phạm tội xâm phạm sở hữu có trình độ văn hóa rất thấp, trình độ nhận thức xã hội và ý thức pháp luật hạn chế, có lối sống ích kỷ, coi thường chuẩn mực đạo đức xã hội, xem thường mạng sống con người, thường giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực, chỉ cần đạt được mục đích. Đặc biệt, một số đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật nhưng lại không biết mình đã phạm tội, một số thì được gia đình và đồng bọn che giấu, giúp đỡ nhằm trốn tránh sự phát hiện của các cơ quan chức năng, thiếu sự hợp tác giúp đỡ trong quá trình điều tra giải quyết các vụ việc của cơ quan có thẩm quyền. Các bị can có trình độ văn hóa thấp, chủ yếu làm nông nghiệp (14.600 bị can, chiếm 65,02%); số đối tượng còn lại nghề nghiệp cũng không ổn định (3.359 bị can, chiếm 14,96%), thường là những đối tượng lêu lổng, lang thang, việc tụ tập thành băng ổ nhóm đang có xu hướng gia tăng.
Trong số bị can của các vụ án xâm phạm sở hữu thì số phạm tội lần đầu lại chiếm tỷ lệ khá lớn là 17.730 bị can (chiếm 78,96%), chỉ có 4.724 bị can (chiếm 21,04%) là có tiền án, tiền sự. Thực tế, khi thực hiện hành vi phạm tội, những bị can phạm tội lần đầu này đều chưa nhận thức được mức độ lỗi, hậu quả pháp lý và hình phạt đối với tội phạm do mình gây ra. Số có tiền án, tiền sự phần lớn là những đối tượng di cư từ nơi khác đến, đã phạm tội lần đầu ở địa phương khác, sau đó di cư đến địa bàn TP. Hồ Chí Minh làm ăn, sinh sống, do không có việc làm và nguồn thu nhập thiếu ổn định đã tiếp tục có hành vi phạm tội, đặc biệt, số bị can dạng này lại có xu hướng ngày càng gia tăng.
Việc các đối tượng “di dân tự do” rồi thực hiện hành vi phạm tội trên đây cần được lưu ý trong quá trình áp dụng các biện pháp phòng ngừa và điều tra tội phạm xâm phạm sở hữu, vì dạng này chiếm tỷ lệ tới 18,57% (4.170 bị can); số bị can tạm trú là 5.948 bị can (chiếm 26,49%). Chỉ hơn nửa số bị can có hộ khẩu thường trú tại TP. Hồ Chí Minh (12.336 bị can). Một lưu ý nữa là, các đối tượng thực hiện hành vi tội phạm xâm phạm sở hữu thì có độ tuổi rất đa dạng, bất kể lứa tuổi nào khi có động cơ, mục đích và điều kiện thuận lợi là có thể gây án. Tuy nhiên, đối tượng từ 18 đến 30 tuổi vẫn chiếm nhiều nhất: 13.178 bị can (chiếm 58,69%); từ 30 đến 45: 6.516 bị can (chiếm 29,02%); từ 45 tuổi trở lên: 1.864 bị can (chiếm 8,3%)…
Hai là, các đối tượng “ra tay” cả ngày lẫn đêm
Thống kê về thời gian xảy ra các vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh từ năm 2010 đến năm 2014 cho thấy, thời gian gây án của các đối tượng trong các vụ án xâm phạm sở hữu xảy ra quanh năm và ở bất kỳ thời điểm nào trong ngày (cả ngày lẫn đêm). Cụ thể, từ 0 giờ đến 12 giờ xảy ra 1.025 vụ, chiếm tỷ lệ 6,29%; từ 12 giờ đến 16 giờ xảy ra 3.185 vụ, chiếm tỷ lệ 19,55%; từ 16 giờ đến 20 giờ xảy ra 11.183 vụ, chiếm tỷ lệ 68,65%; từ 20 giờ đến 24 giờ xảy ra 898 vụ, chiếm tỷ lệ 5,51%. Như vậy, số vụ án xâm phạm sở hữu xảy ra nhiều nhất vào khoảng thời gian từ 16 giờ đến 24 giờ, đây là thời gian nghỉ ngơi sau ngày làm việc, thường có các hoạt động đi lại giao lưu, ăn uống, nên thường thiếu cảnh giác trong việc bảo quản tài sản. Đây cũng là thời điểm thuận lợi mà thủ phạm thường chọn để trốn thoát sau khi gây án. Tội phạm thường xảy ra ở khu vực dân cư sinh sống (qua hồ sơ các vụ từ năm 2010 đến 2014 thì có 7.869 vụ, tỷ lệ 48,3%); địa điểm gây án ở trung tâm quận, huyện, nơi công cộng, các quán nhậu, quán cà phê, tụ điểm vui chơi giải trí là 2.786 vụ (chiếm tỷ lệ 17,1%), gây án xảy ra ở các tuyến trọng điểm là 1.645 vụ (chiếm tỷ lệ 10,1%). Đáng lưu ý là ở nương rẫy có xảy ra khá nhiều vụ xâm phạm sở hữu, 3.991 vụ (chiếm tỷ lệ 24,5%).
Số vụ không có sự chuẩn bị chiếm tỷ lệ 58,75%, các đối tượng thực hiện bột phát bất ngờ, dùng nhiều thủ đoạn để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, thường sử dụng những công cụ sẵn có ở hiện trường để gây án, không có thời gian lựa chọn phương pháp, thủ đoạn gây án, lợi dụng những sơ hở của nạn nhân, điều kiện tự nhiên sẵn có tại hiện trường để gây án. Số vụ có giai đoạn chuẩn bị gây án chiếm tỷ lệ 41,25%, các đối tượng thường lợi dụng vào điều kiện, hoàn cảnh khách quan, lựa chọn thời điểm thuận lợi như khi nạn nhân sơ hở, mất cảnh giác, vắng người để nhanh chóng tiếp cận chiếm đoạt tài sản, hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản rồi nhanh chóng tẩu thoát khỏi nơi gây án mà không bị phát hiện, truy đuổi. Tuy nhiên, có nhiều vụ dù không có sự chuẩn bị từ trước, nhưng thủ phạm luôn có sẵn công cụ, phương tiện gây án trong người để có thể thực hiện hành vi phạm tội ngay lập tức. Trong các vụ án xâm phạm sở hữu mà giữa thủ phạm và nạn nhân có mối quan hệ quen biết từ trước thì thường có giai đoạn chuẩn bị phạm tội và ngược lại. Nếu có mối quan hệ quen biết (thân thích, hàng xóm láng giềng hoặc bạn bè, đối tác làm ăn) thì việc thực hiện tội phạm lại diễn ra công khai, có nhiều người chứng kiến. Đối với vụ án mà người phạm tội không quen biết nạn nhân thì thường các đối tượng bất ngờ gây án rồi nhanh chóng rút khỏi hiện trường nhằm tránh sự nhận diện của nạn nhân và những người khác.
Ba là, các đối tượng thường sử dụng hung khí để gây án
Thủ phạm sử dụng các công cụ, phương tiện gây án rất đa dạng tùy thuộc vào từng đối tượng, từng nhóm đối tượng thực hiện hành vi xâm phạm sở hữu. Số vụ mà các đối tượng dùng sức mạnh chân, tay để phạm tội chỉ chiếm 12,37%, còn lại là sử dụng các loại vũ khí, hung khí, trong đó số vụ án mà các đối tượng sử dụng dao, kiếm, mã tấu, búa, cuốc, xẻng, chai lọ thủy tinh để phạm tội là 11.571 vụ (chiếm tỷ lệ 71,03%); số vụ án mà các đối tượng sử dụng vũ khí quân dụng để phạm tội là 456 (chiếm tỷ lệ 2,8%); số vụ án mà các đối tượng sử dụng các loại công cụ, phương tiện khác để phạm tội là 2.248 vụ (chiếm tỷ lệ 13,8%)… Việc sử dụng các loại vũ khí “nóng” (súng, dao, kiếm, mã tấu…) để phạm tội ngày càng phổ biến. Điều này phần nào phản ánh tính chất manh động, liều lĩnh, táo bạo và tính tổ chức cao trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội của các đối tượng.
Phân tích những đặc điểm của các tội phạm xâm phạm sở hữu trên đây không chỉ có ý nghĩa trong việc định hướng, đề ra đường lối phòng ngừa tội phạm có hiệu quả, mà còn có ý nghĩa và là nền tảng cho việc định tội danh và quyết định hình phạt một cách công bằng, chính xác, khách quan, bảo đảm xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, góp phần tiến tới thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện cho sự tồn tại và gia tăng tội phạm xâm phạm sở hữu trong thời gian tới tại một địa bàn trọng điểm về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội như TP. Hồ Chí Minh.
Ths. Nguyễn Văn Thanh