Ở một nước đang phát triển như Việt Nam vấn nạn này ngày càng trở lên phổ biến, có xu hướng gia tăng và cần phải có sự quan tâm rất lớn đi đôi với những hành động cụ thể của Nhà nước, của xã hội nhằm bảo vệ những đối tượng có thể là nạn nhân của bạo lực gia đình. Bài viết của tác giả đã khái quát được tầm quan trọng của việc xây dựng cơ chế bảo vệ phụ nữ khỏi các hành vi bạo lực cũng như những đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của phòng chống bạo lực gia đình. Trong phạm vi quốc tế là Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1945, Công ước Giơnevơ năm 1949; Công ước về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế xã hội và văn hóa năm 1966; đặc biệt là Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979 nhấn mạnh sự cần thiết phải xóa bỏ nạn phân biệt đối xử với phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với Việt Nam, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều sự quan tâm tới việc phòng, chống bạo lực gia đình và đã ban hành nhiều đạo luật trực tiếp và gián tiếp như: Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Bộ luật Dân sự,..và đặc biệt Luật phòng, chống bạo lực gia đình, những văn bản này đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình.
Bạo lực gia đình hiện nay xảy ra ở tất cả các nhóm xã hội cơ bản, vượt qua ranh giới về khu vực, văn hóa, thu nhập, mức sống, tuổi tác, địa vị xã hội... Nó là nỗi đau, mối lo ngại của không ít gia đình, của mỗi quốc gia và cộng đồng quốc tế. Nó xảy ra ở các nước phát triển và các nước đang phát triển, phương Đông lẫn phương Tây và ở mọi tầng lớp xã hội. Bạo lực gia đình cũng không phải chỉ mới xuất hiện trong xã hội hiện đại (hay là sản phẩm của xã hội hiện đại) mà nó tồn tại trong lịch sử xã hội từ hàng nghìn năm trước, nhưng chỉ được coi là các mối quan hệ có tính chất riêng tư giữa cá nhân, các thành viên trong gia đình, dòng họ. Vài năm gần đây, do tình trạng này ngày một gia tăng và hậu quả để lại cho xã hội là rất lớn, đặc biệt đối với nạn nhân trực tiếp là phụ nữ và trẻ em. Điều này đã khiến các nhà khoa học, các nhà hoạch định, tư vấn chính sách nhìn nhận, chú ý và nghiên cứu một cách nghiêm túc.
1. Pháp luật quốc tế với vấn đề bạo lực đối với phụ nữ
Theo Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) thì: “Bạo lực trên cơ sở giới là bạo lực giữa nam và nữ, trong đó phụ nữ thường là nạn nhân và điều này bắt nguồn từ các mối quan hệ quyền lực bất bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ, bao gồm những tổn hại về thân thể, tình dục và tâm lý (sự đe dọa, gây đau khổ, cưỡng bức, tước đoạt tự do xảy ra trong gia đình hoặc trong cộng đồng... Trước thực trạng bạo lực giới ngày một gia tăng, để kêu gọi toàn thế giới cùng đấu tranh xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ, năm 1999 Liên Hợp Quốc đã lấy ngày 25/11 hàng năm là “Ngày quốc tế về xóa bỏ nạn bạo lực đối với phụ nữ” và nguyên Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Kofi Annan đã nói: “Hãm hiếp phụ nữ, đánh đập phụ nữ trong gia đình, cưỡng bức phụ nữ làm nghề mãi dâm, lạm dụng tình dục ở trẻ em, xúc phạm phụ nữ ở nơi làm việc và nhiều hình thức đối xử thô bạo khác với phụ nữ vượt ra ngoài ranh giới về văn hóa, tôn giáo và khu vực... phải đề cao quyền của tất cả phụ nữ được sống một cuộc sống không bị đối xử thô bạo, một cuộc sống bình đẳng, phát triển và hòa bình”. Trước đây, do quan niệm bạo lực đối với phụ nữ là vấn đề cá nhân, gia đình nên luật quốc tế không có cơ chế bảo vệ tích cực, tuy nhiên các công ước vẫn ghi rất rõ nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử về giới tính.
Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1945, Công ước Giơnevơ năm 1949; Công ước về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế - xã hội và văn hóa năm 1966; đặc biệt là Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979 nhấn mạnh sự cần thiết phải xóa bỏ nạn phân biệt đối xử với phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. “Bất kỳ sự phân biệt, loại trừ hay hạn chế nào dựa trên cơ sở giới tính mà có tác dụng hoặc nhằm mục đích làm tổn hại hoặc vô hiệu hóa việc phụ nữ được công nhận, hưởng thụ hay thực hiện các quyền con người và những tự do cơ bản… bất kể tình trạng hôn nhân, trên cơ sở bình đẳng nam nữ”. Pháp luật quốc tế đã coi mọi hình thức bạo lực đối với phụ nữ đều là sự vi phạm nghiêm trọng các quyền con người và quyền tự do cơ bản của công dân, thể hiện sự phát triển đáng kể trong tiến trình xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, có những giá trị ràng buộc về mặt đạo đức và thể hiện sự đồng thuận, quyết tâm của các quốc gia. Tuy không có giá trị ràng buộc về mặt pháp lý nhưng trong xã hội toàn cầu hiện nay, nếu chúng ta không có biện pháp can thiệp kịp thời để đẩy lùi bạo lực gia đình sẽ rất dễ bị các phần tử phản động lợi dụng dùng chiêu bài nhân quyền để can thiệp công việc nội bộ chống phá đoàn kết, chia rẽ dân tộc, kìm hãm sự phát triển nhằm làm mất uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Do tính chất phổ biến và phức tạp của các hình thức bạo lực, nên việc xây dựng cơ chế bảo vệ phụ nữ khỏi các hành vi bạo lực là hết sức cần thiết.
2. Pháp luật Việt Nam với vấn đề bạo lực gia đình
Ở Việt Nam ngay từ buổi đầu dựng nước Nhà nước đã ghi nhận rất rõ quyền tự do, bình đẳng của mọi công dân được thể hiện trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tinh thần này được phát triển qua các bản Hiến pháp sau này của Nhà nước Việt Nam. Đến nay, trong quá trình toàn cầu hóa, Việt Nam đã phê chuẩn hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người, các công ước có liên quan đến việc xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ và triển khai các hoạt động nhằm trấn áp các hành vi xúc phạm nhân phẩm danh dự con người. Chúng ta cũng đã nỗ lực trong việc bổ sung và hoàn thiện cơ chế chính sách và hệ thống pháp luật bảo vệ con người, không trái với tinh thần của luật pháp và các điều ước quốc tế cũng như phù hợp với truyền thống và phong tục Việt Nam.
Trong Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo năm 2002 đã nhìn nhận là bất bình đẳng giới và bạo lực gia đình là những cản trở đối với sự phát triển. Tuyên bố của Việt Nam trong Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ đưa ra mục tiêu nhằm giảm khả năng dễ bị tổn thương của phụ nữ đối với bạo lực gia đình; hay trong Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam cũng đưa ra mục tiêu giảm mạnh bạo lực gia đình bình quân hàng năm từ 10-15%... Có thể nói, Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề bảo vệ con người, vì con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, đặc biệt sự quan tâm đánh giá cao vai trò của người phụ nữ. Tuy nhiên, thực tế tình trạng bạo lực trong gia đình lại ngày một gia tăng và đáng báo động cả về số vụ lẫn mức độ nghiêm trọng, bất kể khu vực, thành phần, lứa tuổi hay địa vị xã hội. Vậy đâu là sự bất cập giữa lý luận và thực tiễn?
Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có văn bản luật hay chính sách hoàn chỉnh để có thể giải quyết vấn đề bạo lực gia đình. Hiến pháp năm 2013 đã đưa ra những cơ sở pháp lý cao nhất để bảo vệ quyền con người ở Việt Nam như tại khoản 1 Điều 20: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Ở mức độ nào đó, Bộ luật Hình sự; Luật Hôn nhân và gia đình có đề cập tới bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình ở các điều khoản như: Cấm hành hạ hoặc ngược đãi ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu hoặc người nuôi dưỡng; nghiêm cấm những hành vi bạo lực trong gia đình. Đối với bạo lực thể chất, hành vi cố ý gây thương tích cho người khác chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thương tích của nạn nhân được cơ quan có thẩm quyền giám định là trên 11%. Thực tế, khi người phụ nữ bị chồng hành hung họ thường cảm thấy đau đớn, tủi nhục và tìm mọi cách giấu xung quanh, xa lánh mọi người, họ chỉ chịu đến bệnh viện khi thương tích trầm trọng nguy hiểm đến tính mạng. Đối với bạo lực tinh thần, Điều 155 Bộ Luật Hình sự năm 2015 quy định “tội làm nhục người khác”, song mức độ nghiêm trọng về mặt tinh thần là rất khó xác định, đặc biệt khó đối với nạn nhân của bạo lực gia đình. Về bạo lực tình dục (chồng - vợ), thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp nhưng hầu như chưa có Tòa án nào xét xử tội cưỡng dâm/hiếp dâm giữa chồng và vợ.
Trong văn hóa Việt Nam hiện nay, ngược đãi tinh thần và ngược đãi tình dục trong gia đình (chồng - vợ) vẫn chưa được nhìn nhận như một hình thức của bạo lực gia đình. Còn bạo lực thể chất trong gia đình chủ yếu vẫn được giải quyết bằng con đường hòa giải hoặc nội bộ gia đình hoặc Hội Phụ nữ khuyên giải với phương châm “một sự nhịn là chín điều lành”, “chồng nóng thì vợ bớt lời…” gợi hình ảnh tương lai vì những đứa con để đoàn tụ gia đình bằng những lời hứa, những bản kiểm điểm… chứ chưa giải quyết tận gốc vấn đề. Bạo lực gia đình chưa thể giảm khi còn tồn tại quan niệm bạo lực gia đình là chuyện riêng tư, là quyền dạy vợ của nam giới, chưa tạo được dư luận mạnh mẽ của xã hội lên án hành vi này. Tư tưởng về “quyền lực đàn ông” còn tồn tại trong nhiều nam giới hiện chưa được xóa bỏ. Bản thân người phụ nữ cũng chưa nhận thức hết về quyền và trách nhiệm của mình đối với gia đình, xã hội nên thường cam chịu và dấu kín.
Trong xã hội Việt nam, gia đình có vị trí hết sức quan trọng đối với mỗi con người. Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi xoa dịu mọi nỗi đau khi con người ta vấp ngã, gia đình có yên ấm thì xã hội mới phát triển. Nhưng hiện nay, bạo lực trong gia đình đang có nguy cơ biến nhiều gia đình thành nơi chỉ có ngược đãi, đau khổ, nước mắt, thù hận và sự chia ly. Cái giá phải trả cho bạo lực gia đình là vô cùng lớn không chỉ nạn nhân và con cái họ, mà cả gia đình và xã hội cũng bị tác động rất lớn. Chúng ta hy vọng rằng, sau khi Luật Phòng, chống bạo lực gia đình được thông qua, bạo lực gia đình sẽ từng bước được đẩy lùi. Đây sẽ là công cụ pháp lý hữu hiệu có vai trò đắc lực trong việc bảo vệ phụ nữ và trẻ em thoát khỏi các hành vi bạo lực, một xã hội trong đó các chức năng giáo dục trong gia đình được chú trọng, các thành viên trong gia đình thực sự yêu thương, gắn bó và sống có trách nhiệm với nhau. Gia đình được trở về với đúng nghĩa của nó “mái ấm gia đình”, cái nôi nuôi dưỡng trẻ thơ, khởi nguồn tốt nhất cho sự hình thành và phát triển toàn diện: Năng lực thể chất, tinh thần, trí tuệ và nhân cách.
3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả phòng chống bạo lực gia đình
Trước hết, Nhà nước cần xây dựng chương trình thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình hiệu quả; cần có cơ chế thực thi rõ ràng, chế tài nghiêm khắc đối với kẻ gây bạo lực, có chính sách hỗ trợ và bảo vệ nạn nhân và có cơ quan chuyên môn giám sát việc thi hành Luật tại địa phương; đưa công tác quản lý bạo lực gia đình vào chiến lược quốc gia và đưa công tác tư vấn, trợ giúp các nạn nhân bạo lực gia đình thành công việc thường xuyên và cấp bách đối với cán bộ thực thi, coi công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản như một khởi điểm để phát hiện và giúp đỡ các nạn nhân của bạo lực.
Thứ hai, cần có chiến dịch dài hạn về truyền thông nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi cho cán bộ các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân, đặc biệt là lãnh đạo địa phương về bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình. Chiến dịch này nên được lồng ghép trong giáo dục phổ thông, nhằm thay đổi quan niệm về giới và các quan hệ quyền lực trong chương trình giáo dục kỹ năng sống, chuẩn hóa các cơ chế giám sát để đánh giá tác động của những biện pháp can thiệp và bổ sung kịp thời các biện pháp mới. Nên tăng cường phổ biến nhiều hình thức truyền thông, chú trọng nhiều đến sự tham gia của nam giới cũng như của trẻ em. Hoạt động đào tạo các kỹ năng truyền thông cần được tăng cường và phổ biến rộng, có tài liệu dành cho từng nhóm xã hội riêng.
Thứ ba, cần xây dựng cơ chế chính sách cho các cơ quan thực thi và bảo vệ pháp luật, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trang bị các kỹ năng làm việc cho cán bộ thực thi, như cứu giúp nạn nhân và hướng dẫn họ kỹ năng tự bảo vệ mình trước khi có sự trợ giúp của cộng đồng, cách ly kẻ phạm tội và nạn nhân, ổn định trật tự công cộng. Cần sự hợp tác và phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức đoàn thể ở cơ sở và người dân, đặc biệt là các nhóm phụ nữ nhằm hỗ trợ và bảo vệ các nạn nhân. Các tổ chức đoàn thể địa phương nên thành lập các đội can thiệp, các tổ hòa giải, tổ tư vấn cơ sở và có chế độ phối hợp trong việc tuyên truyền về bình đẳng giới, về phòng chống bạo lực gia đình, các hoạt động này cũng cần được kiểm tra giám sát và rút kinh nghiệm thường xuyên, nên tác động cả với những nạn nhân và những kẻ gây bạo lực. Đưa vấn đề giới và phòng chống bạo lực gia đình vào các chương trình phát triển ở cơ sở, khuyến khích nhân dân tham gia. Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, thành lập các câu lạc bộ. Đưa vấn đề phòng chống bạo lực gia đình vào hương ước và giám sát việc thực hiện tại địa phương. Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng văn hóa, khu phố văn hóa…
Thứ tư, cần tuyên truyền nâng cao nhận thức về bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình nhằm xóa bỏ tư tưởng cổ hủ trọng nam khinh nữ trong các gia đình, dòng họ, đặc biệt là chủ gia đình, trưởng họ. Ký cam kết với các dòng họ về xây dựng gia đình văn hóa, dòng họ văn hóa và coi đây là một tiêu chuẩn để đánh giá gia đình văn hóa. Các cá nhân, đặc biệt là nam giới cần tích cực chủ động tham gia các phong trào xã hội ở địa phương, sinh hoạt câu lạc bộ, học tập kiến thức về gia đình, về bình đẳng giới, các quyền của phụ nữ và phòng chống bạo lực trong gia đình thông qua truyền thông. Bản thân người phụ nữ cần hiểu được quyền và trách nhiệm của mình trong công tác bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình. Cần có kiến thức cũng như kỹ năng phòng tránh, tự bảo vệ mình và các con trước khi có sự trợ giúp từ phía các đoàn thể xã hội.
Bạo lực gia đình không chỉ gây tổn hại nặng nề đến tinh thần thể chất của nạn nhân mà còn ảnh hưởng đến những trẻ nhỏ vô tội và gia đình họ, đồng thời cũng tác động tới toàn xã hội. Bạo lực gia đình và việc xâm phạm danh dự nhân phẩm, quyền con người đi ngược lại với việc chúng ta xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, không chỉ đưa ra các giải pháp để đẩy lùi bạo lực gia đình, để tiến tới xóa bỏ mà cần phải có sự phối hợp hành động của tất cả các cấp, các ngành và toàn thể xã hội là điều hết sức cần thiết cho mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam.
Đại học Hải Phòng