Dự án Luật Tương trợ tư pháp về dân sự được xây dựng trên cơ sở tách Luật Tương trợ tư pháp có nhiều điểm mới nổi bật
Dự án Luật Tương trợ tư pháp về dân sự là một trong bốn dự án luật được xây dựng trên cơ sở tách Luật Tương trợ tư pháp hiện hành. Theo Nghị quyết số 129/2024/QH15 ngày 08/6/2023 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024, dự án Luật đã được Quốc hội khóa XV cho ý kiến tại kỳ họp thứ 9 và dự kiến được thông qua tại kỳ họp thứ 10.
Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ chủ trì giúp Chính phủ trình dự án Luật này. Sau khi tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, dự thảo Luật Tương trợ tư pháp về dân sự (dự thảo Luật) gồm gồm 04 chương và 38 điều. Dự thảo Luật đã thể chế hóa các chính sách đề xuất xây dựng Luật đã được phê duyệt, quy định trình tự, thủ tục thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự của Việt Nam và yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự của nước ngoài, trách nhiệm của Bộ Tư pháp và các bộ, ngành, cơ quan có liên quan trong công tác này.
So với Luật Tương trợ tư pháp hiện hành, dự thảo Luật có nhiều điểm mới nổi bật, cụ thể:
- Mở rộng phạm vi tương trợ tư pháp về dân sự, theo đó, bổ sung phạm vi cung cấp các giấy tờ, bản án, quyết định của Tòa án có thông tin về hộ tịch; cung cấp thông tin pháp luật trên cơ sở nội luật hóa các điều ước quốc tế tương trợ tư pháp về dân sự mà Việt Nam là thành viên.
- Giải thích các thuật ngữ được sử dụng trong Luật Tương trợ tư pháp về dân sự nhằm bảo đảm cách hiểu thống nhất.
- Bổ sung quy định điều kiện để áp dụng pháp luật nước ngoài trong trường hợp không có điều ước quốc tế hoặc điều ước quốc tế không quy định.
- Ứng dụng công nghệ thông tin để cắt giảm thời gian chuyển các yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự, nâng cao hiệu quả thực hiện.
- Mở rộng thẩm quyền thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự của nước ngoài để giảm tải công việc cho cơ quan nhà nước.
Được áp dụng pháp luật nước ngoài để thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự nhưng với điều kiện chặt chẽ
Một trong những điểm mới đáng lưu ý của dự thảo Luật đó là quy định về áp dụng pháp luật nước ngoài trong tương trợ tư pháp về dân sự.
Điều 4 dự thảo Luật về áp dụng pháp luật nước ngoài quy định:
“1. Việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong tương trợ tư pháp về dân sự được thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Ngoại giao và cơ quan khác có liên quan xem xét yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự có đề nghị áp dụng pháp luật nước ngoài.
2. Trường hợp Việt Nam và nước ngoài không cùng là thành viên của điều ước quốc tế hoặc điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên không quy định thì việc áp dụng pháp luật nước ngoài được xem xét khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Cơ quan, người có thẩm quyền của nước ngoài đề nghị bằng văn bản về việc áp dụng pháp luật của nước đó; b) Việc áp dụng pháp luật nước ngoài không trái với nguyên tắc tương trợ tư pháp về dân sự quy định tại Điều 5 của Luật này và hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Căn cứ quy định tại các điểm a và b khoản này và pháp luật có liên quan, Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Ngoại giao và cơ quan khác có liên quan xem xét, quyết định việc áp dụng pháp luật nước ngoài.
3. Việc tiếp nhận và xử lý yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự có đề nghị áp dụng pháp luật nước ngoài được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 30 của Luật này”.
Như vậy, về nguyên tắc, việc thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự của nước ngoài sẽ được thực hiện theo quy định pháp luật của Việt Nam. Quy định tại Điều 4 dự thảo Luật cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài để thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự thể hiện thiện chí, sự hợp tác của Việt Nam trong giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, để bảo đảm chủ quyền quốc gia trong lĩnh vực tư pháp, việc áp dụng pháp luật nước ngoài không đương nhiên mà cần đáp ứng đủ các điều kiện tại khoản 2 Điều 4 dự thảo Luật, đồng thời, việc cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài được Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan xem xét cẩn trọng.
Về vấn đề này, cũng có một số ý kiến đã cho rằng việc áp dụng pháp luật nước ngoài là vấn đề lớn, chính sách cho áp dụng pháp luật nước ngoài còn đang còn nhiều quan điểm khác nhau nên cần cân nhắc quy định này tại dự thảo Luật. Với tư cách là cơ quan chủ trì xây dựng dự án Luật, Bộ Tư pháp đã có giải thích như sau:
Thứ nhất, Luật Tương trợ tư pháp về dân sự là luật về thủ tục, hỗ trợ quá trình giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài cần yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự. Do đó, việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong tương trợ tư pháp về dân sự thực chất là áp dụng trình tự, thủ tục thực hiện (cách thức thực hiện) yêu cầu của phía nước ngoài theo quy định của pháp luật nước ngoài trong những trường hợp cụ thể. Điều này không điều chỉnh việc áp dụng pháp luật về nội dung để giải quyết vụ việc dân sự đó.
Thứ hai, việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong tương trợ tư pháp về dân sự không phải đương nhiên, Điều 4 dự thảo Luật có quy định chặt chẽ về điều kiện áp dụng pháp luật nước ngoài.
Thứ ba, quy định về áp dụng pháp luật nước ngoài là luật hóa một trong các chính sách trong đề nghị xây dựng Luật Tương trợ tư pháp về dân sự đã được phê duyệt. Cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài trong các quan hệ pháp luật dân sự không phải là vấn đề mới, đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam có quy định về áp dụng pháp luật nước ngoài, đặc biệt là Bộ luật Dân sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Thứ tư, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế cho thấy nhiều quốc gia cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài trong tương trợ tư pháp về dân sự, chẳng hạn như Điều 15 Luật Tương trợ tư pháp về dân sự của Hàn Quốc, Điều 279 Bộ luật Tố tụng dân sự của Trung Quốc, Điều 11a Luật Tư pháp quốc tế của Thụy Sỹ.
Với những điểm mới của dự thảo Luật Tương trợ tư pháp về dân sự, trong đó có quy định về áp dụng pháp luật nước ngoài, Bộ Tư pháp hi vọng sẽ giải quyết được những vướng mắc, bất cập hiện nay trong hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự, nâng cao hiệu quả của công tác này, từ đó hỗ trợ các cơ quan tư pháp của Việt Nam có đủ cơ sở giải quyết các vụ việc dân sự, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức có liên quan.
Tiếp tục hoàn thiện dự thảo Luật bảo đảm tính khả thi[1]
Tại phiên thảo luận về dự án Luật Tương trợ tư pháp về dân sự, các ý kiến cơ bản nhất trí với nội dung của dự thảo Luật và dự thảo Báo cáo tiếp thu, giải trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bên cạnh đó, một số ý kiến tiếp tục góp ý hoàn thiện dự thảo Luật để bảo đảm tính khả thi. Cụ thể:
Một là, bổ sung giải thích từ ngữ
Về phạm vi điều chỉnh (Điều 1) và khái niệm “tương trợ tư pháp về dân sự” (Điều 3), hiện phạm vi chủ yếu giới hạn ở dân sự, kinh doanh, hôn nhân, lao động, nhưng thực tiễn phát sinh nhiều vụ việc phá sản, thi hành án dân sự, trọng tài thương mại, sở hữu trí tuệ - đều mang bản chất dân sự nhưng chưa được xác định rõ, gây khoảng trống pháp lý. Việt Nam đã tham gia Công ước New York 1958, Công ước La Hay 2019, nên cần mở rộng để phù hợp hội nhập. Theo đó, đại biểu đề nghị bổ sung khoản mới tại Điều 1: “Luật này điều chỉnh hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự bao gồm cả các vụ việc phá sản, thi hành án dân sự, công nhận và cho thi hành bản án, phán quyết trọng tài nước ngoài, các yêu cầu cung cấp thông tin pháp luật và chứng cứ trong lĩnh vực thương mại, đầu tư quốc tế”.
Đồng thời, đại biểu đề nghị bổ sung giải thích từ ngữ tại Điều 3 dự thảo Luật: “Cơ quan trung ương về tương trợ tư pháp về dân sự là Bộ Tư pháp; Cơ quan lập yêu cầu là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự ở Việt Nam; Cơ quan thực hiện yêu cầu là cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận và thực thi yêu cầu tương trợ từ nước ngoài”.
Liên quan đến giải thích cụm từ “tương trợ tư pháp về dân sự”, tại khoản 1 Điều 3 dự thảo Luật quy định: “1. Tương trợ tư pháp về dân sự là việc hợp tác, hỗ trợ giữa cơ quan, người có thẩm quyền của Việt Nam và cơ quan, người có thẩm quyền của nước ngoài thực hiện một hoặc một số hoạt động quy định tại Điều 7 của Luật này nhằm mục đích giải quyết vụ việc dân sự, vụ việc phá sản, việc thi hành án dân sự”. Như vậy, vụ việc cạnh tranh thuộc mối quan hệ về kinh tế nên thuộc lĩnh vực pháp luật dân sự, do đó cần được điều chỉnh bằng Luật Tương trợ tư pháp về dân sự. Do đó, để tránh khoảng trống pháp luật, đại biểu đề nghị tại khoản 1 Điều 3 dự thảo Luật bổ sung thêm cụm từ “vụ việc canh tranh” trước cụm từ “việc thi hành án dân sự”.
Hai là, bổ sung nguyên tắc “có đi có lại” vào quy định tại Điều 5 dự thảo Luật.
Về nguyên tắc tương trợ tư pháp về dân sự tại Điều 5 dự thảo Luật đã kế thừa nguyên tắc cơ bản nhưng chưa quy định rõ về bảo vệ dữ liệu cá nhân, quyền riêng tư, quyền nhân thân, phụ nữ, trẻ em theo Hiến pháp năm 2013 và Nghị định số 13/2023/NĐ-CP của Chính phủ. Các hoạt động thường liên quan đến thông tin cá nhân như hộ tịch, tài sản, thừa kế…, nếu thiếu thì dễ vi phạm quyền con người. Các nước EU, Nhật Bản, Hàn Quốc đều coi đây là nguyên tắc bắt buộc. Do đó, đại biểu kiến nghị bổ sung khoản 3 Điều 5 của dự thảo Luật: “Hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự phải bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền riêng tư, bảo vệ dữ liệu cá nhân; đặc biệt chú trọng bảo vệ phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật và các nhóm yếu thế khác”. Về kiến nghị này, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng cho rằng, trong dự thảo Luật đã tiếp thu, quy định khái quát về các nguyên tắc tương trợ tư pháp là bảo đảm nguyên tắc độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nguyên tắc bảo vệ quyền con người, quyền công dân cũng như đảm bảo phù hợp với quy định của Hiến pháp và các điều quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên.
Đồng thời, đại biểu đề nghị cân nhắc, bổ sung nguyên tắc “có đi có lại” vào quy định tại Điều 5 dự thảo Luật. Nguyên tắc “có đi có lại” từng được ghi nhận tại khoản 2 Điều 4 Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, nhưng tại dự thảo Luật không ghi nhận nguyên tắc này. Nguyên tắc “có đi có lại” là nguyên tắc cơ bản, quan trọng trong quan hệ quốc tế, được đa số các quốc gia trên thế giới công nhận cũng như được ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế hiện nay. Nguyên tắc này bảo đảm cho các quốc gia chưa ký kết các điều ước quốc tế với nhau vẫn có thể hợp tác với nhau trên các lĩnh vực trên cơ sở có đi có lại. Theo Tờ trình của Chính phủ thì Việt Nam đã ký kết 18 hiệp định/thỏa thuận tương trợ tư pháp về dân sự song phương với các quốc gia/vùng lãnh thổ và gia nhập 02 Điều ước quốc tế đa phương (Công ước tống đạt với 84 thành viên; Công ước thu thập chứng cứ với 66 thành viên). Trong điều kiện nước ta mới chỉ ký kết song phương với hơn 18 quốc gia/vùng lãnh thổ Hiệp định tương trợ tư pháp nêu trên, để bảo đảm hoạt động tương trợ tư pháp có cơ sở pháp lý, linh hoạt đối với các quốc gia mà nước ta chưa ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự, đề nghị tiếp tục ghi nhận việc áp dụng nguyên tắc này tại dự thảo Luật.
Bên cạnh đó, tại dự thảo Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu: “Dự thảo Luật không quy định trực tiếp nguyên tắc “có đi có lại” trong tương trợ tư pháp về dân sự, mà tiếp cận linh hoạt hơn bằng việc bổ sung quy định về trường hợp yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự của nước ngoài có thể bị từ chối khi có căn cứ cho rằng phía nước ngoài không hợp tác thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự của Việt Nam (điểm a khoản 2 Điều 27). Quy định này tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để xem xét, quyết định việc áp dụng linh hoạt nguyên tắc “có đi có lại” trong thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự với nước ngoài, bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân của Việt Nam, thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này”. Mặc dù nhất trí với nội dung này, tuy nhiên, đại biểu đề nghị cần luật hoá nguyên tắc này ở Điều 5 dự thảo Luật, từ đó mới có cơ sở để áp dụng điểm a khoản 2 Điều 27 dự thảo Luật như Báo cáo đã đề cập.
Ba là, làm rõ các quy định để đảm bảo tính khả thi.
Liên quan đến miễn hợp pháp hóa lãnh sự tại Điều 8 dự thảo Luật quy định miễn hợp pháp hóa lãnh sự đối với hồ sơ có chữ ký, con dấu cơ quan nước ngoài như Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nêu, tuy nhiên, chưa rõ trường hợp hồ sơ điện tử với chữ ký số được quy định như thế nào. Trong chuyển đổi số, Nhật Bản, Singapore, EU đã công nhận chữ ký điện tử trong tương trợ dân sự; nếu không mở rộng, Việt Nam sẽ gặp trở ngại giao dịch quốc tế. Vì vậy, đại biểu kiến nghị bổ sung đoạn sau vào khoản 1 Điều 8: “Hồ sơ, tài liệu tương trợ tư pháp được lập dưới dạng điện tử, có chữ ký số hoặc xác thực điện tử của cơ quan, người có thẩm quyền nước ngoài cũng được xem là hợp lệ và được miễn hợp pháp hóa lãnh sự”. Về vấn đề này, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng cho rằng, quy định miễn hợp pháp hóa lãnh sự đối với hồ sơ có thể là bản giấy, bản điện tử và tùy từng trường hợp là bản giấy hay bản điện tử để áp dụng quy định về miễn hợp pháp hóa lãnh sự. Chữ ký số nếu là chữ ký của cơ quan người có thẩm quyền yêu cầu tương trợ tư pháp cũng được miễn hợp pháp hóa lãnh sự.
Liên quan đến các điều 25, 34 của dự thảo Luật đã bổ sung quy định cho phép cơ quan tố tụng hai bên có thể lấy lời khai trực tuyến. Đây là các quy định cần thiết, phản ánh đúng yêu cầu phát triển thực tiễn và ứng dụng công nghệ trong tư pháp. Tuy nhiên, đề nghị cơ quan soạn thảo làm rõ thêm một số điểm trong trường hợp hai nước chưa có Hiệp định song phương thì có thực hiện được nội dung này hay không? Hoặc cần xác định rõ giá trị pháp lý của lời khai qua video, lời khai dạng này được chấp nhận như thế nào, có giá trị tương đương với lời khai trực tuyến hay chỉ là một chứng cứ hỗ trợ, bổ trợ cho hoạt động lấy lời khai trực tuyến. Những nội dung này cần làm rõ hơn để giúp cho việc triển khai thi hành Luật trong thực tiễn không bị vướng mắc và bảo đảm tính khả thi.
(Ảnh: Quochoi.vn)
Nguồn: https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=96383.