Bài viết đánh giá các điều kiện để đối tượng quyền sở hữu trí tuệ có thể trở thành tài sản bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ. Đây là loại tài sản đặc biệt nên trên thực tế không có nhiều các tổ chức, cá nhân chấp nhận quyền sở hữu trí tuệ là tài sản bảo đảm.
Xuất phát từ tính chất của tài sản trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có những điểm đặc thù so với các tài sản khác. Không phải trong mọi trường hợp quyền sở hữu trí tuệ đều có thể trở thành tài sản bảo đảm. Bên cạnh đó, vấn đề định giá quyền sở hữu trí tuệ khi đưa vào làm tài sản bảo đảm trong các giao dịch cũng đóng vai trò quan trọng, nhất là trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm. Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích các điều kiện về mặt lý luận và thực tiễn để đối tượng quyền sở hữu trí tuệ trở thành tài sản đảm bảo. Đây là vấn đề mà Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành không có các quy định pháp luật điều chỉnh. Cơ sở lý thuyết áp dụng là học thuyết về bản chất của quyền sở hữu trí tuệ - tính chất vô hình của đối tượng này.
1. Tài sản bảo đảm là quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ
Khác với tài sản thông thường, quyền sở hữu trí tuệ hướng đến những đối tượng do lao động trí tuệ làm ra, mang tính chất vô hình và được nhận biết bằng hoạt động nhận thức. Đặc trưng của quyền sở hữu trí tuệ không phải là quyền đối với bản thân các vật thể hữu hình, mà chính là những thông tin chứa đựng trong đó[1]. Trong quá trình lao động, con người không chỉ tạo ra những tài sản vật chất mà các giá trị tinh thần cũng chiếm một vị trí quan trọng, nhất là trong thời đại khoa học - công nghệ phát triển ở mức độ cao như hiện nay. Các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ tuy được điều chỉnh trên nền tảng pháp luật dân sự nhưng chứa đựng nhiều điểm khác biệt trong căn cứ xác lập, thực thi và bảo vệ quyền khi có hành vi xâm phạm. Vì đây là những sản phẩm được tạo ra bởi lao động sáng tạo và trí tuệ của con người nên luôn gắn với các yếu tố thuộc về nhân thân cá nhân sáng tạo. Bên cạnh đó, quyền sở hữu trí tuệ cũng mang bản chất tài sản vì đối tượng này hoàn toàn có thể trị giá được thành tiền, có thể khai thác lợi ích để thu lại các giá trị vật chất cũng như có thể chuyển giao cho chủ thể khác khai thác. Do vậy, quyền sở hữu trí tuệ bao gồm cả quyền nhân thân và quyền tài sản.
Dưới góc độ quy định pháp luật, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Luật Sở hữu trí tuệ) ghi nhận bảo hộ cả quyền nhân thân và tài sản cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ (cụ thể như Điều 18, Điều 121, Điều 122, Điều 185, Điều 186). Trong đó, đa số các quyền nhân thân chỉ thuộc về tác giả sáng tạo ra đối tượng sở hữu trí tuệ, việc chuyển giao cho chủ thể khác rất hạn chế hoặc hầu như không thể chuyển giao. Các quyền tài sản mang bản chất là tài sản, được khẳng định trong quy định của Bộ luật Dân sự. Do đó, việc chuyển nhượng hay chuyển quyền sử dụng cũng linh hoạt hơn, là cơ sở, công cụ để chủ sở hữu khai thác đối tượng quyền sở hữu trí tuệ của mình.
Chỉ có quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ mới có thể trở thành tài sản bảo đảm. Tài sản trí tuệ nói chung có những điểm khác biệt so với các loại tài sản khác theo quy định chung của Bộ luật Dân sự. Sở hữu trí tuệ hướng đến các sản phẩm của hoạt động sáng tạo. Sự khác biệt đáng chú ý nhất giữa sở hữu trí tuệ và các loại sở hữu khác là tính vô hình của nó, tức là sở hữu trí tuệ không thể xác định được bằng các đặc điểm vật chất của chính nó. Nó phải được thể hiện bằng một cách thức cụ thể nào đó để có thể bảo vệ được[2]. Tính vô hình của tài sản trí tuệ ở chỗ chúng ta không thể nhận thấy bằng các giác quan thông thường, không thể sở hữu theo kiểu vật chất đặc định. Tài sản vô hình là các nhân tố phi vật chất được sử dụng trong hoặc đóng góp vào quá trình sản xuất hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ, hay được kỳ vọng sẽ làm phát sinh một nguồn lợi tương lai cho cá nhân hoặc doanh nghiệp kiểm soát việc sử dụng chúng. Có quan điểm về sự phân chia nhóm các tài sản vô hình như sau[3]: Tài sản vô hình liên quan đến công nghệ (sáng kiến, sáng chế, giống cây trồng, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bản thiết kế, sổ tay kỹ thuật...), tài sản vô hình liên quan đến tiếp thị (danh sách khách hàng, danh sách nhà cung ứng, phương án tiếp thị, chính sách giá cả, chỉ dẫn thương mại...), tài sản vô hình liên quan đến tác phẩm (đồ án, tranh ảnh, mẫu thiết kế, giai điệu, phim, sách...), tài sản vô hình liên quan đến hợp đồng (cung ứng, phân phối, khai thác, thi công, sử dụng chuyên gia, hợp tác nghiên cứu...). Trong số các tài sản vô hình nêu trên, có một bộ phận được gọi là các tài sản trí tuệ do có sự kết tinh cao của hàm lượng trí tuệ trong bản thân tài sản. Các tài sản trí tuệ có tính mới và có giá trị thương mại lâu dài sẽ được pháp luật xem xét bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho người nắm giữ.
Những tài sản vô hình này với giá trị kinh tế, khả năng khai thác trong kinh doanh, thương mại hoàn toàn có thể trở thành tài sản bảo đảm, đáp ứng hai điều kiện: (i) Đây là tài sản có giá trị - tính được thành tiền; (ii) Có thể chuyển giao dưới hình thức chuyển nhượng/chuyển quyền sử dụng cho người khác. Những điều kiện này cũng là cơ sở khẳng định các quyền nhân thân thuộc quyền sở hữu trí tuệ không thể là tài sản bảo đảm. Quyền nhân thân gắn liền với bản thân chủ thể sáng tạo, mục tiêu của việc bảo hộ là hướng đến các giá trị về mặt nhân thân, con người, uy tín, danh tiếng… nên quyền này không trị giá được bằng tiền và cũng không thể chuyển giao cho chủ thể khác. Cụ thể, trong lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan, Điều 45, Điều 47 Luật Sở hữu trí tuệ quy định các quyền có thể chuyển giao bao gồm các quyền quy định tại khoản 3 Điều 19, Điều 20, khoản 3 Điều 29, Điều 30 và Điều 31 Luật Sở hữu trí tuệ - tức là các quyền tài sản hoặc quyền nhân thân liên quan đến tài sản (quyền công bố tác phẩm). Các quyền nhân thân chỉ thuộc về tác giả tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, người biểu diễn, tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng và không được chuyển giao (trừ quyền công bố tác phẩm).
Về định giá tài sản bảo đảm, để trở thành tài sản đảm bảo, quyền sở hữu trí tuệ (mà cụ thể là phần quyền tài sản) phải được định giá. Định giá tài sản trí tuệ là công việc phức tạp và đòi hỏi chuyên môn cao[4]. Định giá nói chung là loại hoạt động chuyên môn vừa mang tính kinh tế - kỹ thuật, tính pháp lý, vừa mang tính xã hội. Hoạt động định giá hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự hình thành, tồn tại và phát triển của thị trường. Khi một tài sản trở thành đối tượng của giao dịch bảo đảm, việc định giá vô cùng quan trọng và cần thiết. Theo quy định của pháp luật, định giá được hiểu như sau: “Định giá là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh quy định giá cho hàng hóa, dịch vụ”[5]. Như vậy, định giá tài sản được hiểu là việc tư vấn, định các mức giá cụ thể cho từng loại tài sản làm căn cứ cho các giao dịch trên thị trường, trong đó có các giao dịch bảo đảm. Đối với các loại tài sản, hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá (các cơ quan có thẩm quyền quy định) thì các mức giá cụ thể của từng loại tài sản, hàng hóa mang tính bắt buộc mọi đối tượng tham gia hoạt động giao dịch, mua bán phải thực hiện. Đối với các tài sản, hàng hóa, dịch vụ không thuộc danh mục Nhà nước định giá thì do các tổ chức, cá nhân tự định giá theo quy luật thị trường làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch mua bán, trao đổi. Nhìn chung, định giá tài sản trí tuệ có thể được hiểu là hoạt động xác định giá trị và đưa ra giá cả của một tài sản trí tuệ cụ thể tại một thời điểm xác định, làm căn cứ cho các hoạt động giao dịch mua, bán tài sản trí tuệ đó trên thị trường. Đây là hoạt động cần thiết nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Trên thực tế, việc định giá quyền sở hữu trí tuệ là hoạt động cực kỳ phức tạp. Đối với tài sản thông thường, giá trị tài sản được phản ánh qua công dụng, nhu cầu thị trường, giá chuyển giao thực tế… Tuy nhiên, tính chất vô hình của tài sản trí tuệ làm cho việc định giá tài sản này phức tạp và không ổn định. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến bên nhận bảo đảm e ngại khi tài sản bảo đảm là quyền sở hữu trí tuệ. Đối với giao dịch bảo đảm, thông thường hoạt động định giá được tiến hành ít nhất hai lần: Thứ nhất là khi chuẩn bị giao kết hợp đồng bảo đảm, việc định giá nhằm xác định khả năng, phạm vi bảo đảm bằng tài sản trí tuệ đó; thứ hai là khi xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện nghĩa vụ của mình. Trong lần định giá thứ hai, thông thường giá trị tài sản bảo đảm sẽ thay đổi rất nhiều, nhiều khả năng giá trị tài sản bị giảm sút. Điều này càng cản trở bên nhận bảo đảm chấp nhận tài sản trí tuệ làm tài sản bảo đảm bởi khả năng ẩn chứa các rủi ro, nghĩa vụ được bảo đảm không được thực hiện và tài sản bảo đảm không đủ để thanh toán nghĩa vụ. Đối với tài sản hữu hình, tỷ lệ rủi ro thấp hơn so với quyền sở hữu trí tuệ bởi lẽ sự biến động về giá thường không quá lớn so với thời điểm định giá lần thứ nhất.
Mặc dù pháp luật hiện hành quy định quyền sở hữu trí tuệ có thể được sử dụng để làm tài sản bảo đảm, tuy nhiên, vấn đề này thường gặp nhiều khó khăn và bất cập không chỉ ở Việt Nam mà cả các nước khác trên thế giới, trong đó nổi bật là các khó khăn trong vấn đề định giá. Thực tiễn cho thấy, rất hiếm khi các tổ chức tín dụng nhận bảo đảm bằng quyền sở hữu trí tuệ. Lý do có thể đưa ra là rất khó đánh giá chính xác giá trị của quyền sở hữu trí tuệ được dùng làm tài sản bảo đảm và quan trọng nhất là rủi ro trong quan hệ này là rất lớn, do giá trị của quyền sở hữu trí tuệ có thể giảm sút, thậm chí là mất giá trị do sự thay đổi của thị trường, công nghệ, thời hạn bảo hộ cũng như các yếu tố liên quan đến thị hiếu của người tiêu dùng. Việc giá trị một tài sản lên hay xuống thất thường tạo ra nguy cơ rất lớn cho bên nhận bảo đảm khi đến thời điểm xử lý tài sản, giá trị của tài sản đảm bảo không đủ để chi trả nghĩa vụ.
Hiện nay, định giá quyền sở hữu trí tuệ nói chung và định giá để xác định giá trị tài sản đảm bảo nói riêng có thể được thực hiện theo nhiều phương pháp khác nhau[6] (các phương pháp định giá tài sản trí tuệ). Dưới góc độ kinh tế, một tài sản trí tuệ có thể được định giá theo một trong (hoặc kết hợp) ba phương pháp: Theo chi phí[7] (cost approach), theo thị trường[8] (market approach) và theo thu nhập[9] (income approach)[10]. Theo pháp luật sở hữu trí tuệ hiện hành, giá trị của phần quyền tài sản trong quyền sở hữu trí tuệ được xác định theo một hoặc các căn cứ: Giá chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc giá chuyển giao quyền sử dụng; giá trị góp vốn kinh doanh bằng quyền sở hữu trí tuệ; giá trị quyền sở hữu trí tuệ trong tổng số tài sản của doanh nghiệp; giá trị đầu tư cho việc tạo ra và phát triển đối tượng quyền, bao gồm các chi phí tiếp thị, nghiên cứu, quảng cáo, lao động, thuế và các chi phí khác (khoản 2 Điều 17 Nghị định số 105/2006[11]). Trên thực tế, khi việc xác định chính xác giá trị quyền sở hữu trí tuệ gặp khó khăn, cơ quan có thẩm quyền thường xác định bằng giá chuyển giao một đối tượng tương tự trên thị trường hoặc giá chuyển giao chính đối tượng đó trong một giao dịch khác tương đương. Để việc định giá quyền sở hữu trí tuệ đạt hiệu quả cao, bên cạnh vấn đề tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động này, thị trường khoa học công nghệ cần được hình thành và vận hành có hiệu quả. Bên cạnh đó, cần phát triển các tổ chức định giá quyền sở hữu trí tuệ chuyên nghiệp và đội ngũ định giá viên được đào tạo chuyên sâu và có kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực này.
2. Đối tượng quyền sở hữu trí tuệ còn trong thời hạn bảo hộ
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là bảo hộ có thời hạn. Bên cạnh giới hạn về mặt không gian, bảo hộ sở hữu trí tuệ còn bị giới hạn về mặt thời gian. Theo đó, pháp luật quy định thời hạn bảo hộ đối với từng loại đối tượng sở hữu trí tuệ. Chẳng hạn, theo Hiệp định TRIPS, thời hạn bảo hộ đối với tác phẩm được tính như sau: Trừ tác phẩm nhiếp ảnh và tác phẩm nghệ thuật ứng dụng, nếu thời hạn bảo hộ tác phẩm không được tính theo đời người, thời hạn đó không được dưới 50 năm kể từ khi kết thúc năm dương lịch mà tác phẩm được công bố một cách hợp pháp, hoặc 50 năm tính từ khi kết thúc năm dương lịch mà tác phẩm được tạo ra nếu tác phẩm không được công bố một cách hợp pháp trong vòng 50 năm từ ngày tạo ra tác phẩm (Điều 12); đối với sáng chế, thời hạn bảo hộ theo quy định không được kết thúc trước khi hết 20 năm tính từ ngày nộp đơn (Điều 93). Các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ khác cũng có giới hạn tương tự về thời hạn bảo hộ.
Thời hạn bảo hộ là khoảng thời gian theo quy định của pháp luật mà trong thời hạn đó, quyền sở hữu trí tuệ của chủ thể có quyền (tác giả/chủ sở hữu) được Nhà nước bảo vệ, chống lại sự xâm phạm của các chủ thể khác. Đây là một trong những đặc trưng riêng biệt của quyền sở hữu trí tuệ so với các tài sản hữu hình. Quy định này xuất phát từ mục tiêu cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ và lợi ích xã hội. Bảo hộ sở hữu trí tuệ, đề cao và tôn vinh giá trị của các tài sản sáng tạo, bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu nhưng mặt khác cũng cần có sự hài hòa lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia. Thời hạn bảo hộ được tính toán phù hợp sao cho trong khoảng thời gian này, chủ thể sáng tạo/chủ sở hữu quyền đã nhận lại được những lợi ích từ hoạt động lao động sáng tạo đó, bù đắp các chi phí đã bỏ ra. Việc quy định thời hạn bảo hộ cho quyền sở hữu trí tuệ được áp dụng ở hầu hết các quốc gia bảo hộ đối tượng này và trong các điều ước quốc tế liên quan. Như vậy, quy định thời hạn bảo hộ đã thỏa mãn được nhiệm vụ bảo vệ lợi ích cá nhân và lợi ích công cộng, khuyến khích thúc đẩy hoạt động sáng tạo nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân (Điều 8 Luật Sở hữu trí tuệ).
Về hậu quả pháp lý khi hết thời hạn bảo hộ: Hết thời hạn bảo hộ, có thể hiểu rằng chủ sở hữu đã nhận lại được các giá trị vật chất của mình, tài sản trí tuệ được phục vụ rộng rãi cho mọi người, trở thành tài sản chung của nhân loại. Điều này đồng nghĩa với việc chủ sở hữu ban đầu sẽ không còn là chủ sở hữu của quyền sở hữu trí tuệ đó nữa, bất kỳ chủ thể nào cũng có thể khai thác, sử dụng tài sản trí tuệ (không xâm phạm đến quyền nhân thân). Trong trường hợp này, quyền sở hữu trí tuệ không thể làm tài sản đảm bảo vì: (i) Không còn là tài sản của chủ sở hữu; (ii) không có giá trị khi xử lý tài sản.
Thời hạn bảo hộ cũng là một nguy cơ cần xem xét khi nhận bảo đảm bằng quyền sở hữu trí tuệ. Vào thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm, có thể giá trị đối tượng rất lớn. Chẳng hạn, chủ Bằng độc quyền sáng chế giao kết giao dịch bảo đảm bằng sáng chế thuộc sở hữu của mình. Vào thời điểm xử lý tài sản đảm bảo, thời hạn bảo hộ sáng chế là 20 năm đã chấm dứt (hoặc sắp chấm dứt), giá trị của sáng chế này bằng không (hoặc xuống rất thấp) vì lúc này bất kỳ ai cũng có quyền sử dụng sáng chế. Yếu tố làm nên giá trị của tài sản trí tuệ chính là quyền ngăn cấm người khác sử dụng tài sản của mình. Khi chấm dứt thời hạn bảo hộ, quyền này không còn nên không thể là tài sản bảo đảm.
3. Khả năng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ trở thành tài sản bảo đảm
Quyền sở hữu trí tuệ được quy định khá đa dạng theo pháp luật nhiều quốc gia cũng như theo pháp luật Việt Nam. Cụ thể, Luật Sở hữu trí tuệ quy định đối tượng quyền sở hữu trí tuệ bao gồm: Đối tượng quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, đối tượng quyền sở hữu công nghiệp và đối tượng quyền đối với giống cây trồng. Trong đó, không phải đối tượng nào cũng có thể trở thành tài sản bảo đảm. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế này là những giới hạn trong việc chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ. Dựa trên bản chất từng đối tượng, quyền sở hữu trí tuệ được chia thành ba nhóm: Nhóm các đối tượng có thể làm tài sản bảo đảm; nhóm các đối tượng có thể trở thành tài sản bảo đảm trong những điều kiện nhất định và nhóm các đối tượng không thể trở thành tài sản bảo đảm.
3.1. Các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ có thể là tài sản bảo đảm
Đối tượng quyền tác giả: Đối tượng quyền tác giả được xác định cụ thể tại khoản 1 Điều 3, Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ. Điều 45 Luật này cho phép chủ sở hữu quyền tác giả được phép chuyển nhượng cho bất kỳ chủ thể nào quyền tài sản đối với tác phẩm. Kể cả trong trường hợp tác phẩm có đồng chủ sở hữu thì việc chuyển nhượng phải có sự thỏa thuận của tất cả các đồng chủ sở hữu; trong trường hợp có đồng chủ sở hữu nhưng tác phẩm có các phần riêng biệt có thể tách ra sử dụng độc lập (tương tự quy định về sở hữu chung theo phần trong Bộ luật Dân sự) thì chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan có quyền chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan đối với phần riêng biệt của mình cho tổ chức, cá nhân khác. Do vậy, quyền tác giả hoàn toàn có thể trở thành tài sản bảo đảm nghĩa vụ.
Đối tượng quyền liên quan: Khoản 1 Điều 3 và Điều 17 Luật Sở hữu trí tuệ đã chỉ ra các đối tượng quyền liên quan được bảo hộ. Trong đó, cuộc biểu diễn chính là buổi trình bày một nội dung với sự tham gia của một hoặc nhiều người, cho đông đảo người nghe, người xem. Đây là một trong những đối tượng được bảo hộ quyền liên quan, bởi lẽ, một cuộc biểu diễn sẽ là thành quả lao động của nhiều người, sự sáng tạo của người biểu diễn, người dàn dựng. Thêm vào đó, giá trị cuộc biểu diễn còn có thể đem lại những lợi ích lớn cho chủ thể nào nắm giữ quyền đối với chương trình đó. Bản ghi âm, ghi hình là kết quả của sự đổi mới về công nghệ, cho phép nhân bản các màn trình diễn cá nhân của các nghệ sỹ biểu diễn và sử dụng chúng mà không cần sự có mặt của họ cũng như không cần người sử dụng phải có nghĩa vụ đạt được thỏa thuận với họ, đã dẫn tới việc giảm bớt các buổi trình diễn trực tiếp. Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được hiểu là bất kỳ chương trình nào được truyền đến công chúng bằng cách phát sóng. Nó cũng được hiểu đồng nghĩa với việc phát sóng[12]. Tương tự như quy định về quyền tác giả, quyền liên quan hoàn toàn có thể chuyển nhượng cho chủ thể khác để khai thác, thu lại các lợi ích vật chất nhất định (trừ các quyền nhân thân của người biểu diễn). Do đó, đối tượng quyền liên quan có thể trở thành tài sản bảo đảm nghĩa vụ.
Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp: Khái niệm “sở hữu công nghiệp” chỉ có ở các nước theo hệ thống luật lục địa. Các nước theo hệ thống luật chung (luật Anh - Mỹ) không sử dụng thuật ngữ này mà trực tiếp đề cập đến các đối tượng. Tuy vậy, phần lớn các nước đều thống nhất với nhau về khái niệm các đối tượng được bảo hộ dưới dạng sở hữu công nghiệp, được quy định ở nhiều công ước quốc tế như Công ước Berne về bảo hộ quyền tác giả, Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp[13]. Dựa vào đặc trưng và chức năng, các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp được chia thành hai nhóm: Nhóm đối tượng mà việc bảo hộ xuất phát từ giá trị của sự sáng tạo và nhóm đối tượng nhằm hướng dẫn thương mại cho khách hàng. Tuy nhiên, không phải đối tượng quyền sở hữu công nghiệp nào cũng có thể trở thành tài sản đảm bảo. Những đối tượng quyền sở hữu công nghiệp mà Luật Sở hữu trí tuệ không giới hạn trong chuyển giao quyền gồm: Sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh. Chủ sở hữu những đối tượng này có thể chuyển nhượng hoặc chuyển quyền sử dụng cho chủ thể khác, trong phạm vi được bảo hộ (Điều 138, 139 Luật Sở hữu trí tuệ). Thậm chí, quyền sử dụng các đối tượng đó còn có thể trở thành tài sản bảo đảm. Chẳng hạn A là chủ sở hữu sáng chế, ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng sáng chế đó cho B trong thời hạn một năm. Quyền sử dụng này cũng là quyền tài sản, do vậy, B có thể dùng để đảm bảo cho giao dịch của mình, nếu A đồng ý. Tất nhiên quyền sử dụng này chỉ có giá trị trong một năm theo thỏa thuận nên bên nhận bảo đảm có thể phải chịu rủi ro khi thời hạn kết thúc. Trong trường hợp nhận bảo đảm bằng một số đối tượng quyền sở hữu công nghiệp nêu trên, mặc dù pháp luật không ràng buộc về điều kiện chuyển giao quyền nhưng lại có các quy định về duy trì và gia hạn hiệu lực văn bằng bảo hộ. Để duy trì hiệu lực Bằng độc quyền sáng chế, Bằng độc quyền giải pháp hữu ích, chủ văn bằng bảo hộ phải nộp lệ phí duy trì hiệu lực. Để gia hạn hiệu lực Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp, Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, chủ văn bằng bảo hộ phải nộp lệ phí gia hạn hiệu lực. Khi quyền sở hữu trí tuệ đã trở thành tài sản đảm bảo, chủ thể nào có trách nhiệm nộp các khoản phí này là vấn đề mà các bên nên xác định rõ. Việc nộp lệ phí rất quan trọng, đặc biệt là lệ phí duy trì hiệu lực. Nếu lệ phí duy trì hiệu lực không được nộp theo quy định, văn bằng bảo hộ sẽ bị chấm dứt hiệu lực (điểm a khoản 1 Điều 95 Luật Sở hữu trí tuệ). Hệ quả về mặt giá trị vật chất của trường hợp này không khác so với khi chấm dứt thời hạn bảo hộ, cho phép các chủ thể trong xã hội được sử dụng đối tượng này. Thông thường, nghĩa vụ này thuộc về chủ sở hữu - chủ văn bằng bảo hộ. Kể cả trong trường hợp bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm không có thỏa thuận cụ thể về việc thực hiện nghĩa vụ này, chủ sở hữu vẫn nên là chủ thể có trách nhiệm đóng các khoản phí theo quy định.
Đối tượng quyền đối với giống cây trồng: Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu (khoản 5 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ). Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là vật liệu nhân giống và vật liệu thu hoạch. Trong đó, vật liệu nhân giống là cây hoặc bộ phận của cây có khả năng phát triển thành một cây mới dùng để nhân giống hoặc để gieo trồng. Tùy theo từng loại cây và đặc điểm sinh học riêng biệt, mỗi giống cây trồng sẽ có vật liệu nhân giống đặc trưng thông thường là một bộ phận của cây có khả năng sinh trưởng, phát triển thành cây mới tốt nhất. Đây là đối tượng mà pháp luật về bảo hộ giống cây trồng chú trọng bởi vật liệu nhân giống là kết tinh của sự sáng tạo trong việc xây dựng nên một giống cây trồng mới, từ đó tạo ra sản phẩm mà chủ sở hữu mong muốn. Vật liệu thu hoạch là cây hoặc bộ phận của cây thu được từ việc gieo trồng vật liệu nhân giống. Mỗi giống cây trồng mới được chọn tạo, phát hiện và phát triển nhằm tạo ra sản phẩm mới có giá trị không chỉ về mặt khoa học, nghiên cứu mà còn ở giá trị kinh tế. Bằng việc gieo trồng vật liệu nhân giống, điểm cuối của quá trình trồng trọt là thu về những vật liệu thu hoạch - sự thể hiện rõ nét nhất kết quả của hoạt động nghiên cứu và bảo hộ giống cây trồng. Tương tự như quyền tác giả hay sáng chế (có những quốc gia hiện nay bảo hộ giống cây trồng dưới dạng sáng chế), quyền đối với giống cây trồng có thể được chuyển giao cho chủ thể khác. Điều 194 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: Chuyển nhượng quyền đối với giống cây trồng là việc chủ bằng bảo hộ giống cây trồng chuyển giao toàn bộ quyền đối với giống cây trồng đó cho bên nhận chuyển nhượng. Bên nhận chuyển nhượng trở thành chủ bằng bảo hộ giống cây trồng kể từ ngày hợp đồng chuyển nhượng được đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về quyền đối với giống cây trồng theo thủ tục do pháp luật quy định. Ngoài ra, không có các giới hạn liên quan đến điều kiện chuyển nhượng. Như vậy, đối tượng quyền đối với giống cây trồng có thể trở thành tài sản bảo đảm.
3.2. Các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ có thể là tài sản bảo đảm với điều kiện nhất định
Trường hợp này liên quan đến hai đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp là nhãn hiệu và tên thương mại.
Đối với nhãn hiệu: Việc chuyển nhượng quyền đối với nhãn hiệu không được gây ra sự nhầm lẫn về đặc tính, nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Đồng thời, pháp luật quy định quyền đối với nhãn hiệu chỉ được chuyển nhượng cho tổ chức, cá nhân đáp ứng các điều kiện đối với người có quyền đăng ký nhãn hiệu đó. Đối với nhãn hiệu tập thể, khoản 2 Điều 142 Luật Sở hữu trí tuệ ràng buộc: Quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể không được chuyển giao cho tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể đó. Về quyền đăng ký nhãn hiệu, pháp luật cho phép tổ chức, cá nhân có quyền đăng ký nhãn hiệu dùng cho hàng hóa do mình sản xuất hoặc dịch vụ do mình cung cấp. Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động thương mại hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm mà mình đưa ra thị trường nhưng do người khác sản xuất với điều kiện người sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm và không phản đối việc đăng ký đó. Tổ chức tập thể được thành lập hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu tập thể để các thành viên của mình sử dụng theo quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể; đối với dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ, tổ chức có quyền đăng ký là tổ chức tập thể của các tổ chức, cá nhân tiến hành sản xuất, kinh doanh tại địa phương đó. Như vậy, nhãn hiệu có thể trở thành tài sản đảm bảo với điều kiện bên nhận xử lý tài sản đó phải đáp ứng các điều kiện theo quy định.
Đối với tên thương mại: Quyền sử dụng tên thương mại không được chuyển giao, còn việc chuyển nhượng chỉ được thực hiện khi chuyển nhượng cùng với việc chuyển nhượng toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó (Điều 139 Luật Sở hữu trí tuệ). Trong trường hợp chủ sở hữu muốn dùng tên thương mại của mình làm tài sản bảo đảm thì đồng thời toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó cũng phải trở thành tài sản bảo đảm hoặc cũng phải chuyển nhượng cho bên nhận tên thương mại khi đối tượng này bị xử lý.
3.3. Đối tượng quyền sở hữu trí tuệ không thể là tài sản bảo đảm
Bên cạnh các nhóm đối tượng quyền sở hữu trí tuệ có thể làm tài sản bảo đảm nêu trên, quyền sở hữu công nghiệp tồn tại một đối tượng đặc thù không thể tham gia giao dịch bảo đảm, đó là chỉ dẫn địa lý. Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể. Đây được xem là một dạng đặc biệt của nhãn hiệu, được xác định với danh nghĩa là đối tượng của một hệ thống bảo hộ riêng, là những dấu hiệu xác định một sản phẩm hoặc dịch vụ có xuất xứ từ một quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương cụ thể. Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, quyền đối với chỉ dẫn địa lý không được chuyển nhượng (khoản 2 Điều 139) và quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý cũng không được chuyển giao (khoản 1 Điều 142). Quan trọng hơn, chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý của Việt Nam là Nhà nước (khoản 4 Điều 121) và đây là chủ thể duy nhất có quyền sở hữu chỉ dẫn địa lý. Như vậy, khó có thể xảy ra trường hợp chỉ dẫn địa lý được đem đi làm tài sản bảo đảm và kể cả khi tồn tại giao dịch này thì việc xử lý tài sản bảo đảm cũng là bất khả thi. Trong trường hợp Nhà nước trao quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý cho tổ chức, cá nhân tiến hành việc sản xuất sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đó thì quyền sử dụng, quản lý này cũng không được chuyển giao cho chủ thể khác. Do vậy, không thể xử lý tài sản bảo đảm và không đáp ứng được mục đích của giao dịch bảo đảm. Mặc dù cả Luật Sở hữu trí tuệ và Bộ luật Dân sự năm 2015 không có quy định minh thị về vấn đề này nhưng có các quy định về hạn chế chuyển giao quyền để ngăn cản việc chỉ dẫn địa lý trở thành đối tượng của giao dịch bảo đảm.
Tóm lại, quyền sở hữu trí tuệ với bản chất đặc thù của mình có thể trở thành tài sản bảo đảm trong một số trường hợp, với những điều kiện nhất định. Trong xu thế chung, quyền sở hữu trí tuệ ngày càng được đề cao, thể hiện giá trị của mình hoàn toàn không thua kém so với các tài sản hữu hình. Do vậy, về mặt lý luận, khi sở hữu các tài sản trí tuệ thì chủ sở hữu hoàn toàn có thể dùng đối tượng này làm tài sản bảo đảm giao dịch. Dưới góc độ thực tiễn, các biện pháp bảo đảm bằng tài sản trí tuệ chưa được sử dụng phổ biến do tâm lý e ngại rủi ro khi nhận bảo đảm bằng loại tài sản này. Để xử lý hiệu quả tài sản bảo đảm là quyền sở hữu trí tuệ khi bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ đòi hỏi hai yếu tố quan trọng. Thứ nhất là hoạt động định giá quyền sở hữu trí tuệ phải được thực hiện chính xác và thứ hai là giá trị thương mại của quyền sở hữu trí tuệ phải được giữ ở mức ổn định so với khi giao kết hợp đồng bảo đảm. Ở Việt Nam, hiện nay, cả hai điều kiện trên rất ít khi đạt được.
Khoa Luật Dân sự, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
http://baohothuonghieu.com/banquyen/tin-chi-tiet/dinh-gia-tai-san-so-huu-tri-tue/1303.html (truy cập ngày 10/10/2018).
[12] Tham khảo:
Công ước Berne, Điều 11 bis(1)(ii).
Công ước quyền tác giả toàn cầu (UCC), Điều V ter (8)(ii).
Công ước Rome, Điều 2(1).