Đổi mới doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc cải cách nền kinh tế. Sắp xếp, đổi mới, tái cơ cấu DNNN để DNNN có cơ cấu hợp lý hơn, tập trung vào ngành, lĩnh vực then chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội và quốc phòng, an ninh, làm nòng cốt để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo.
Trong thời gian qua, đặc biệt là những năm gần đây, thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng về sắp xếp, đổi mới DNNN, Chính phủ, các ngành, các cấp đã tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện một cách khá đồng bộ, sâu rộng, đạt được những kết quả quan trọng. DNNN được tập trung ở những ngành, lĩnh vực then chốt mà Nhà nước cần nắm giữ; đứng vững và có bước phát triển, góp phần vào thành tựu chung của đất nước; chi phối được những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, góp phần để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao thế và lực của đất nước.
Tuy nhiên, việc đổi mới DNNN ở Việt Nam vẫn không đạt các mục tiêu mong muốn và đang tồn tại những hạn chế, yếu kém trầm trọng như sau:
- Nhìn chung, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của DNNN chưa tương xứng với nguồn lực được phân bổ; trình độ công nghệ của đa số DNNN vẫn ở mức thấp. Hiệu quả của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước còn thấp, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu ở mức tương đương với chi phí vay vốn trung bình của các tổ chức tín dụng. Còn khá nhiều DNNN làm ăn thua lỗ. Chưa tách bạch hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động công ích.
Trong nhiều DNNN, sự lãng phí, thất thoát nguồn lực còn lớn, nhất là trong các ngành khai thác, chế biến, xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản, trong đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm, nhập khẩu thiết bị, vật tư. Một số vụ việc tiêu cực, vi phạm pháp luật nghiêm trọng ở DNNN gây hậu quả không nhỏ về kinh tế, ảnh hưởng xấu đến uy tín của DNNN.
- Tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN tuy đã rõ hơn nhưng vẫn còn nhiều bất cập, lúng túng và kém hiệu quả. Hoạt động công ích chưa thu hút được các tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế khác tham gia.
Có thể nêu một số vấn đề về cơ chế và vi phạm quy chế đang làm cho DNNN hoạt động không hiệu quả như sau:
- Cơ chế, chính sách về tài chính đối với các DNNN còn chứa đựng nhiều bất cập, yếu kém nên đã để cho các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty và các DNNN tìm nhiều kẻ hở vi phạm nguyên tắc tài chính.
Ví dụ như: Hệ thống quy chế, quy định để kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh, hướng dẫn việc luân chuyển chứng từ và hạch toán kế toán chưa được xây dựng đồng bộ và đầy đủ, đã dẫn đến phản ánh sai lệch kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh do các hoạt động kiểm soát không hữu hiệu, không khoa học và hạch toán không đúng chuẩn mực và chế độ. Báo cáo của các DNNN làm ăn đều khá nhưng thực trạng tài chính của DNNN rất yếu kém, tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro, mất cân đối tài chính và thua lỗ kéo dài.
- Quy chế quản lý tài chính DNNN chứa đựng nhiều bất cập, yếu kém và như một số tổng công ty, tập đoàn và DNNN đã huy động vốn một cách tràn lan để mở rộng sản xuất kinh doanh đến hơn trên 3 lần vốn chủ sở hữu hoặc vốn điều lệ. Mặc dù Chính phủ đã có quy định các công ty nhà nước phải sử dụng tối thiểu 70% nguồn vốn đầu tư vào các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực thuộc ngành nghề kinh doanh chính của công ty và tổng mức đầu tư ra ngoài công ty (bao gồm đầu tư ngắn hạn và dài hạn) không vượt quá mức vốn điều lệ của công ty nhà nước, cũng như hoạt động đầu tư góp vốn vào các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, công ty nhà nước chỉ được đầu tư vào mỗi lĩnh vực một doanh nghiệp, mức vốn không vượt quá 20% vốn điều lệ của tổ chức nhận góp vốn, mức góp vốn của công ty mẹ và công ty con trong tổng công ty, tập đoàn không vượt quá mức 30% vốn điều lệ của tổ chức nhận góp vốn, nhưng do sự lỏng lẻo trong cơ chế tài chính đã tạo ra cơ hội cho trào lưu đầu tư dàn trải, phân tán và tràn lan vào những lĩnh vực ngành nghề không thuộc lĩnh vực kinh doanh chủ yếu, hậu quả là đã làm cho nhiều DNNN lâm vào khó khăn, đổ bể khi khủng hoảng kinh tế xảy ra. Trách nhiệm của những người đại diện chủ sở hữu trong vấn đề này không được xác định rõ ràng đã là mảnh đất tốt cho những sai phạm lẽ ra không đáng có.
- Sự vô trách nhiệm, lỏng lẻo trong quản lý của các cơ quan có liên quan đã dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN bị giảm sút. Một trong những nguyên nhân của vấn đề này là do việc triển khai thực hiện việc luân chuyển chứng từ và hạch toán kế toán thiếu quyết liệt, không theo dõi và không giám sát để điều chỉnh kịp thời nên đã phản ánh sai lệch kết quả sản xuất kinh doanh. Điều này đã làm cho bức tranh toàn cảnh về sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một bức tranh không thực; lỗ, lãi không rõ ràng và cuối cùng là doanh nghiệp lâm vào khó khăn.
- Việc thực hiện chức năng chủ sở hữu nhà nước chưa được quy định một cách rõ ràng, minh bạch để cho những cá nhân nhân danh đại diện cho nhà nước làm đại diện chủ sở hữu đã lợi dụng biến quyền đại diện này thành quyền của mình để làm lợi cho mình, làm hại đến nhà nước mà lẽ ra nếu họ là chủ sở hữu họ đã phải hành động vì lợi ích của chủ sở hữu. Ở đây bản chất ở chỗ là đại diện chủ sở hữu hoàn toàn khác với chủ sở hữu về bản chất nên khi xây dựng quy chế quản lý cần quan tâm đưa ra những quy định chặt chẽ để không bị lạm dụng và làm biến dạng quyền đại diện này.
- Quy định mỗi công ty TNHH một thành viên do một tổ chức làm đại diện chủ sở hữu nhưng việc thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước lại được phân công, phân cấp cho nhiều cơ quan, nhiều Bộ, ngành nên khi các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế có vấn đề cần trình theo thẩm quyền của đại diện chủ sở hữu như phải lấy ý kiến các Bộ, ngành thì gặp phải tình trạng là phải giải trình nhiều đầu mối, do đó đã làm chậm tiến độ hoạt động sản xuất - kinh doanh, lỡ cơ hội kinh doanh, mất đi quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh của doanh nghiệp.
- Việc xác định trách nhiệm của các cơ quan quản lý không rõ ràng, minh bạch nên khi các đơn vị này không thực hiện tốt chức trách đại diện chủ sở hữu của mình đã không có biện pháp xử lý vi phạm thích hợp, tức là để cho tình trạng cha chung không ai khóc đang tồn tại trong thực tế, nên khi xảy ra thất thoát, thua lỗ đã không tìm ra được tổ chức, cá nhân nào chịu trách nhiệm.
- Do được hưởng nhiều ưu đãi về nguồn lực cũng đã tạo ra tâm lý ỷ lại của các DNNN (dễ làm, khó kêu) và cũng là một trong những nguyên nhân làm cho DNNN có hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh thấp. Cụ thể là DNNN phải chi ra và sử dụng hàng chục đồng vốn mới tạo được 01 đồng doanh thu. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước ở mức rất thấp, khoảng 16,5% chỉ tương đương với chi phí vay vốn trung bình của các tổ chức tín dụng nên đã lâm vào khó khăn là điều không tránh khỏi. Hơn nữa, trước những hoạt động sản xuất kinh doanh kém hiệu quả đó lại không được cơ quan quản lý cấp trên cảnh báo, nhắc nhở nên hoạt động của các DNNN đã kém lại càng kém hơn do không nhận thức đúng vai trò và trách nhiệm của mình trước nhà nước.
- Cơ chế quản lý và giám sát của Nhà nước về đầu tư của DNNN còn lỏng lẻo, để cho DNNN đầu tư dàn trải và kém hiệu quả. Cơ chế quản lý đầu tư của các doanh nghiệp còn nhiều bất cập, dẫn đến nhiều tập đoàn, tổng công ty đầu tư quá nóng, đầu tư không căn cứ vào khả năng tài chính của mình mà nhiều lúc chạy theo lợi ích nhóm; thành lập quá nhiều công ty con, công ty liên kết trong khi năng lực quản lý và khả năng tài chính có hạn là một biểu hiện khá rõ nét hành vi sai trái đưa đến yếu kém của DNNN.
- Việc thực hiện vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước còn nhiều hạn chế. Nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước chưa bắt kịp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường trên các mặt như: năng lực, hiệu lực, hiệu quả và năng suất lao động còn quá thấp.
2. Giải pháp đổi mới thể chế doanh nghiệp nhà nước
2.1. Đổi mới nội dung quản lý của Nhà nước
Tăng cường việc thực hiện có hiệu lực và hiệu quả các quyền và nghĩa vụ của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu, người đầu tư vốn được pháp luật và điều lệ DNNN quy định. Chủ sở hữu thực hiện các nghĩa vụ đối với DNNN như: Bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh, không can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; đầu tư đủ vốn điều lệ, chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp, tuân thủ điều lệ của doanh nghiệp…
Nội dung quản lý của Nhà nước đối với DNNN cần tập trung hơn vào những vấn đề có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy tái cấu trúc DNNN, xác lập địa vị, vị thế mới của DNNN trong nền kinh tế thị trường, bao gồm:
- Quản lý việc tái cơ cấu DNNN theo lộ trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt giai đoạn 2016 - 2020; tiêu chí phân loại sắp xếp DNNN; cổ phần hóa DNNN; giao bán, khoán, cho thuê; chuyển đổi DNNN theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, nhiều thành viên theo mô hình công ty mẹ - công ty con, tập đoàn kinh tế.
- Tăng cường năng lực cho Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp sau khi được thành lập (năm 2018) chịu trách nhiệm quản lý vốn tại 19 đơn vị gồm 7 tập đoàn, 12 tổng công ty, với tổng số vốn ước tính trên 2,3 triệu tỷ đồng (nắm gần 50% giá trị vốn nhà nước và tài sản của khu vực DNNN), bảo đảm quản trị hiệu quả DNNN, công khai, minh bạch hoạt động kinh doanh, điều hành của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả việc quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
2.2. Thay đổi cơ chế giám sát doanh nghiệp nhà nước
Giám sát của Nhà nước đối với DNNN là sự theo dõi, xem xét, đánh giá của chủ sở hữu Nhà nước xem DNNN có thực hiện đúng và tuân thủ các quy định, các nội dung quản lý của Nhà nước đối với DNNN hay không. Theo dõi để nắm bắt tình hình, để biết rõ các thông tin cần thiết về DNNN phục vụ cho mục tiêu quản lý.
Vấn đề cấp thiết đổi mới quản lý DNNN phù hợp với thể chế kinh tế thị trường là tăng cường vai trò của giám sát trong hoạt động quản lý DNNN, trong đó có giám sát việc tổ chức thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước tại các DNNN và doanh nghiệp có vốn nhà nước.
Xác định rõ nội dung giám sát của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN, mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế nhà nước, tổng công ty nhà nước. Nội dung giám sát tập trung vào các vấn đề sau:
- Giám sát về tổ chức, thành lập, gia nhập, tổ chức lại, giải thể, thay đổi cơ cấu sở hữu, thực hiện điều lệ, tình hình tài chính, hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Giám sát về công tác cán bộ (bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, chế độ lương, thưởng, thực hiện nhiệm vụ và kết quả hoạt động của Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, người đại diện được ủy quyền của chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp, Tổng Giám đốc, Giám đốc).
Tăng cường giám sát trách nhiệm người đại diện theo ủy quyền (Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng quản trị) và người điều hành (Tổng Giám đốc) đối với việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ lợi ích chủ sở hữu nhà nước tại các tập đoàn kinh tế nhà nước, tổng công ty nhà nước, DNNN quy mô lớn.
- Giám sát việc thực hiện mục tiêu, phương hướng, chiến lược kinh doanh; kế hoạch đầu tư, kế hoạch tài chính; danh mục đầu tư, các ngành nghề kinh doanh chính và nghiêm cấm việc đầu tư ra ngoài ngành nghề kinh doanh chính, vào lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn, dự án có nguy cơ rủi ro cao.
- Giám sát về tình hình, kết quả và hiệu quả kinh doanh; tình hình và kết quả hoạt động tài chính; tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu; hiệu quả đầu tư và kinh doanh; vay, nợ và khả năng thanh toán nợ; việc bảo toàn và phát triển vốn nhà nước; vốn điều lệ, tăng giảm vốn điều lệ, thay đổi cơ cấu vốn điều lệ; các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền của chủ sở hữu.
2.3. Tăng cường cơ chế minh bạch, công khai hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
Tăng cường minh bạch và công khai để thúc đẩy cải thiện quản trị DNNN. Công khai, minh bạch là đặc trưng của việc cải thiện quản trị doanh nghiệp đã được thừa nhận thành nguyên tắc quản trị doanh nghiệp của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) áp dụng đối với các DNNN. Đồng thời, DNNN là tài sản, vốn liếng của dân, do dân đóng thuế, vì vậy, cần tăng cường minh bạch, công khai toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và hoạt động đầu tư kinh doanh tài chính và quản lý của chủ sở hữu nhà nước để nhân dân giám sát.
Hiện nay, còn nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn xa lạ với khái niệm minh bạch và công khai. Trong khi đó, các công ty đa quốc gia hiện đang hoạt động tại Việt Nam lại coi việc thực hiện minh bạch và công khai như là đặc trưng trong phương thức kinh doanh, xác định là giá trị cốt lõi của doanh nghiệp. Về dài hạn, chính sách minh bạch và công khai sẽ giúp doanh nghiệp xây dựng được hình ảnh, duy trì sự tin cậy của các đối tác, khách hàng cổ đông… cải thiện năng lực cạnh tranh, chất lượng sản phẩm và môi trường kinh doanh nói chung.
Các DNNN, trước mắt tập trung thực hiện minh bạch hoá và công bố thông tin về hoạt động của doanh nghiệp với những nội dung chủ yếu sau:
- Xác định rõ mục đích, yêu cầu của minh bạch hoá thông tin là nhằm thúc đẩy, tạo điều kiện cho các DNNN tự chủ hoạt động theo thể chế kinh tế thị trường, giảm can thiệp trực tiếp của nhà nước, và sử dụng nó làm công cụ giám sát chủ yếu đối với doanh nghiệp.
- Tổ chức xây dựng và công bố báo cáo thường niên của DNNN, bao gồm: Các thông tin hoặc tài liệu về kết quả tài chính và hoạt động của DNNN; về mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp; về cơ cấu sở hữu và tài sản của DNNN; về các giao dịch kinh doanh chủ yếu của doanh nghiệp trong kỳ công bố thông tin, trong đó có các giao dịch với các bên có lợi ích liên quan; về những rủi ro trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh chính, các chính sách hạn chế rủi ro; về hoạt động quản trị doanh nghiệp.
- Lập và công bố báo cáo tài chính quý của DNNN; công bố thông tin bất thường tương tự như các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán.
- Việc minh bạch hóa thông tin về DNNN có thể được tiến hành dưới các hình thức và phương tiện: Báo cáo bằng văn bản gửi cho các cơ quan, tổ chức được giao thực hiện chức năng chủ hữa nhà nước; trang thông tin điện tử (Website) của doanh nghiệp hoặc của công ty mẹ trong tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; các bản in, ấn phẩm khác của doanh nghiệp trên các phương tiện thông tin đại chúng.
2.4. Thay đổi cơ chế, chính sách bất hợp lý
Thay đổi, loại bỏ những cơ chế, chính sách bất hợp lý, không còn phù hợp với thực tế cuộc sống, đặc biệt là không phù hợp với thông lệ quốc tế trên cơ sở đổi mới thể chế, trong đó có thể chế kinh tế qua việc cải cách hệ thống pháp lý và các văn bản quy phạm pháp luật. Đổi mới nhận thức và tư duy về mô hình phát triển của DNNN, các tổng công ty và các tập đoàn kinh tế nhà nước trên cơ sở không để DNNN tồn tại bằng mọi giá. DNNN chỉ tồn tại khi làm ăn có hiệu quả, có năng suất và chất lượng cao với trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, có đóng góp thực sự cho ngân sách nhà nước (NSNN) và cho xã hội. Những DNNN nào không đạt được các yêu cầu đó thì không còn lý do tồn tại và cần giải tán, cho phá sản hoặc cổ phần hóa, hoặc chuyển đổi mô hình sang kinh tế tư nhân.
2.5. Xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng
Bên cạnh xây dựng một môi trường thông thoáng để các DNNN phát huy mọi lợi thế để hoạt động một cách sáng tạo, chủ động và có hiệu quả kinh tế - xã hội cao và các DNNN được đặt trong điều kiện pháp lý và môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng như các doanh nghiệp ngoài nhà nước, thì cần có cơ chế giám sát, kiểm tra chặt chẽ để các DNNN không hoạt động trái luật và kém hiệu quả, tạo ra một môi trường minh bạch trong quản lý tài chính và hoạt động của DNNN.
Đổi mới cơ chế quản lý và tái cấu trúc DNNN trên nguyên tắc không có DNNN trở thành độc quyền. Tất cả các DNNN và doanh nghiệp ngoài nhà nước được đặt trên một nguyên tắc hoạt động là cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh, không độc quyền, không thao túng giá cả, thao túng thị trường và thao túng nền kinh tế. Mỗi ngành nghề, mỗi lĩnh vực cần có nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh với môi trường và điều kiện pháp lý bình đẳng.
2.6. Xây dựng cơ chế phân loại doanh nghiệp nhà nước
Bức tranh thực về hoạt động của các DNNN vẫn còn đang là những ẩn số chưa được tường minh mà điều này lại rất cần thiết để có thể đề ra được cơ chế, chính sách và giải pháp tái cấu trúc đúng đắn. Do vậy, hơn lúc nào hết cần đánh giá đúng thực chất về tài chính và các hoạt động cụ thể của từng DNNN trên cơ sở kiểm tra, thanh tra toàn bộ các DNNN hiện có. Đây là giải pháp cần thiết để có thể phân loại các DNNN ra các loại khác nhau. Những DNNN làm ăn thua lỗ kéo dài cần thay đổi bộ máy lãnh đạo doanh nghiệp, cụ thể là chủ tịch Hội đồng quản trị, tổng giám đốc và các lãnh đạo khác, sau đó là phân loại doanh nghiệp để có thể cho phá sản, bán bớt doanh nghiệp, cổ phần hóa tiếp một số doanh nghiệp không thực sự cần thiết phải 100% vốn nhà nước, thực hiện đa sở hữu đối với DNNN. Chỉ giữ lại một số ít doanh nghiệp đặc biệt quan trọng có tính chiến lược sống còn đối với nền kinh tế và do cấp trung ương quản lý, hạn chế DNNN do địa phương quản lý.
2.7. Xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của doanh nghiệp nhà nước trước nền kinh tế
Quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của DNNN trước nền kinh tế, cụ thể là trách nhiệm về bảo toàn vốn, trách nhiệm về kinh doanh có lãi, trách nhiệm về đóng góp cho NSNN và trách nhiệm đối với các vấn đề khác. Tách bạch hoạt động kinh doanh của DNNN với hoạt động thực hiện các nhiệm vụ xã hội như xóa đói giảm nghèo, thực hiện các nhiệm vụ ở vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi hải đảo…, để từ đó có cơ sở để đánh giá đúng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN với hiệu quả xã hội mà các DNNN này thực hiện. Quy định rõ ràng và minh bạch trách nhiệm của bộ máy lãnh đạo DN nhà nước trước pháp luật, trước đất nước. Nghiêm minh trước pháp luật bất kỳ ai làm tổn thất, thất thoát đồng vốn và tài sản Nhà nước giao cho quản lý.
2.8. Thay đổi cơ chế về ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước
Tái cấu trúc DNNN trên cơ sở rà soát lại ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh của từng DNNN, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế nhà nước, chỉ cho phép các DNNN, các tập đoàn nhà nước kinh doanh trong một số ngành nghề nhất định, chủ yếu và theo đúng chức năng đã được quy định, không cho phép mở rộng quá nhiều ngành nghề kinh doanh. Sắp xếp, tổ chức lại các DNNN là giải pháp quan trọng hàng đầu làm cơ sở để tiến hành cổ phần hóa, tư nhân hóa. Giảm bớt số lượng các tập đoàn và các tổng công ty trên cơ sở loại bỏ và thay đổi mô hình sản xuất kinh doanh của các DNNN hoạt động không hiệu quả, thực sự không đại diện, không thể hiện được hình ảnh tiên phong trong lĩnh vực kinh doanh và phải có giải pháp đột phá về cổ phần hóa và tư nhân hóa.
2.9. Thay đổi cơ chế bổ nhiệm cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước
Thay đổi chế độ tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ quản lý DNNN theo cơ chế hiện nay sang cơ chế thu hút, tuyển chọn thông qua thị trường nhân lực quản trị kinh doanh. Đồng thời, việc bổ nhiệm lãnh đạo cấp cao của DNNN, tập đoàn kinh tế nhà nước thực hiện theo hình thức ký hợp đồng có thời hạn. Để làm được yêu cầu này, phải nghiên cứu đổi mới căn bản chế độ tiền lương, có cơ chế gắn trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của người quản lý DNNN với kết quả hoạt động của doanh nghiệp.
Hiện nay, DNNN, mặc dù đã có nhiều đổi mới và phát triển, nhưng cũng còn nhiều hạn chế. Vì vậy, việc tiếp tục đổi mới DNNN vẫn là nhiệm vụ cấp bách và cũng là nhiệm vụ chiến lược lâu dài trong công cuộc đổi mới ở nước ta./.
Học viện Chính trị khu vực I