1. Vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội
Trong xã hội tồn tại nhiều loại quy tắc điều chỉnh các quan hệ xã hội như giáo lý, đạo đức, phong tục, tập quán, điều lệ, thỏa ước tập thể... Các quy tắc này đều có những yêu cầu về cách thức hình thành, cũng như đặt ra các quy chuẩn, cơ chế áp dụng nhưng các thuộc tính phổ quát, chặt chẽ về mặt hình thức hay cưỡng chế của quy phạm pháp luật là nổi trội hơn các quy tắc khác.
Trước hết, xét về thuộc tính phổ biến thì về nguyên tắc, quy phạm pháp luật áp dụng đối với tất cả các tổ chức, cá nhân trên phạm vi quốc gia, lãnh thổ và chỉ bị hạn chế về đối tượng, không gian áp dụng bởi tính chất, nội dung của quy phạm và phải được quy định rất cụ thể bởi chính các quy phạm pháp luật. Việc áp dụng chỉ bị đình chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền bãi bỏ, bổ sung, sửa đổi bằng những quy phạm khác hoặc do thời hiệu áp dụng đã hết. Bên cạnh đó, một trong những đặc trưng của quy phạm pháp luật là tính chặt chẽ về mặt hình thức. Các nội dung của thuộc tính hình thức (trình tự, thủ tục, chủ thể, thể thức, hồ sơ...) được pháp luật quy định rất cụ thể. Tính chặt chẽ về mặt hình thức là yếu tố không thể thiếu, thậm chí quyết định đến hiệu lực pháp lý của quy phạm pháp luật. Nếu không đáp ứng các yêu cầu về mặt hình thức thì quy phạm pháp luật không thể được ban hành hoặc nếu ban hành thì cũng có thể bị xem xét về hiệu lực pháp lý. Ngoài ra, thuộc tính cưỡng chế bằng quyền lực nhà nước là một đặc điểm rất riêng của quy phạm pháp luật. Nhà nước sử dụng bộ máy cơ quan công quyền để tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định pháp luật, qua đó, pháp luật trở thành “quy tắc đặc biệt” mà mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội phải tuân thủ.
Pháp luật và Nhà nước là sản phẩm kết tinh sáng tạo của văn minh nhân loại, được hình thành trong quá trình phát triển xã hội và là hai phạm trù có quan hệ biện chứng không thể tách rời. Hơn nữa, pháp luật được xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện bởi Nhà nước nên rõ ràng ưu thế hơn hẳn các quy tắc xử sự khác trong xã hội. Do vậy, có thể khẳng định, pháp luật là công cụ vô cùng quan trọng và không thể thiếu để Nhà nước quản lý xã hội, thông qua pháp luật, các đường lối, chiến lược được thể chế hóa thành các quy định mang tính bắt buộc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhìn chung, các nước trên thế giới đều quan tâm, tập trung nguồn lực con người và nguồn lực tài chính cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm công tác xây dựng pháp luật và đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo các cấp, các ngành nâng cao trách nhiệm đối với công tác này. Qua đó, công tác xây dựng pháp luật đã có chuyển biến tích cực. Tại Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48-NQ/TW) đã nêu rõ kết quả sau gần 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có những tiến bộ quan trọng. Trên cơ sở tổng kết 10 năm triển khai thực hiện Chiến lược, Bộ Chính trị đã khẳng định, hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, cơ bản thể chế hóa kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội[1].
Tiếp đó, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) đã nhận định, qua hơn 35 năm đổi mới và hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991, bổ sung, phát triển năm 2011), hệ thống pháp luật được hoàn thiện một bước cơ bản; vai trò của pháp luật và việc thực thi pháp luật được chú trọng trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Tại Đại hội Đảng lần thứ XIII, một lần nữa vai trò của pháp luật lại được nhận thức một cách toàn diện và sâu sắc hơn, trong đó hoàn thiện thể chế được xác định là một trong ba đột phá chiến lược với các nội dung cơ bản như: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính, hợp tác công - tư; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật.
Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo đối với các bộ, ngành, địa phương phải chú trọng xây dựng và hoàn thiện thể chế. Chính phủ tổ chức nhiều phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật[2]. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 43/CT-TTg ngày 11/12/2020 về nâng cao chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật.
2. Thực trạng công tác xây dựng pháp luật trong thời gian qua và quan điểm, định hướng hoàn thiện công tác xây dựng pháp luật
Qua báo cáo của Bộ Tư pháp, công tác xây dựng pháp luật những năm gần đây nhận được sự quan tâm của các cấp, các ngành và chất lượng được nâng lên rõ rệt. Năm 2020, Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua 17 luật (tổng số văn bản đã trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua trong nhiệm kỳ là 112 văn bản). Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành đã ban hành 882 văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), tính cả nhiệm kỳ là 5.244 văn bản (tăng 37,5% so với nhiệm kỳ trước (2011 - 2015)). Các địa phương đã ban hành 3.186 VBQPPL cấp tỉnh, tính cả nhiệm kỳ là 20.923 văn bản (tăng 51,7% so với nhiệm kỳ trước); 991 VBQPPL cấp huyện trong số 13.990 văn bản của cả nhiệm kỳ (giảm 54,5% so với nhiệm kỳ trước); 3.078 VBQPPL cấp xã trong tổng số 72.253 văn bản từ năm 2016 đến năm 2020 (giảm 63% so với nhiệm kỳ trước)[3]. Năm 2021, Chính phủ trình Quốc hội thông qua 02 luật, 05 nghị quyết; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành đã ban hành 784 VBQPPL; ở địa phương đã ban hành 3.619 VBQPPL cấp tỉnh, 1.981 VBQPPL cấp huyện, 2.588 VBQPPL cấp xã[4]. Năm 2022, Chính phủ trình Quốc hội thông qua 12 luật, 06 nghị quyết; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành đã ban hành 602 VBQPPL; ở địa phương, đã ban hành 3.948 VBQPPL cấp tỉnh, 2.739 VBQPPL cấp huyện, 778 VBQPPL cấp xã. Với số lượng lớn văn bản được rà soát, sửa đổi hoặc ban hành mới hàng năm cho thấy, công tác xây dựng pháp luật ngày càng được tăng cường, hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, chặt chẽ hơn cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng pháp luật còn một số hạn chế, bất cập như: Hệ thống pháp luật chưa thực sự hoàn chỉnh, đồng bộ; pháp luật trên một số lĩnh vực còn thiếu tính ổn định, tính dự báo chưa cao, chất lượng chưa bảo đảm; việc sửa đổi, bổ sung còn nhiều; quy trình xây dựng VBQPPL qua nhiều tầng nấc, làm chậm tiến độ ban hành và tổ chức thực hiện. Công tác tổ chức thi hành pháp luật vẫn là khâu yếu. Tình trạng “nợ đọng” văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành còn khá phổ biến; công tác rà soát, hệ thống hóa và pháp điển hóa chưa được triển khai mạnh mẽ; công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật chưa có giải pháp đột phá, hiệu quả chưa cao; đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật chưa được tăng cường để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; công tác giám sát, kiểm tra văn bản pháp luật chưa thường xuyên; xử lý sai sót, vi phạm thiếu kiên quyết, triệt để; việc tổ chức thi hành pháp luật có lúc, có việc còn lỏng lẻo, tính răn đe, giáo dục chưa cao. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về pháp luật chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn và nhiệm vụ quản lý nhà nước. Cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật chưa đồng bộ, có lúc còn phân tán, có nơi còn cục bộ. Cơ chế để nhân dân tích cực tham gia vào các hoạt động xây dựng pháp luật và giám sát thi hành pháp luật chưa được phát huy[5].
Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 28-NQ/TW) cũng đã chỉ ra hạn chế trong công tác xây dựng pháp luật là: Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng vẫn chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng không khả thi. Chậm khắc phục tình trạng ban hành nhiều văn bản, một số văn bản còn chung chung, dàn trải, chậm bổ sung, sửa đổi, thay thế.
Theo thống kê năm 2020, Ngành Tư pháp đã kiểm tra theo thẩm quyền 13.154 VBQPPL (giảm 1,8% so với năm 2019), bước đầu phát hiện 239 văn bản có dấu hiệu trái nội dung, thẩm quyền (chiếm tỷ lệ 1,81% trên tổng số văn bản được kiểm tra); tập trung rà soát được 32.918 VBQPPL, kiến nghị xử lý (sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới) đối với 4.817 văn bản[6]. Năm 2021, Ngành Tư pháp đã rà soát 29.955 VBQPPL, kiến nghị xử lý 5.581 văn bản[7]. Các bộ, ngành và địa phương đã thực hiện kiểm tra theo thẩm quyền 13.233 VBQPPL, đã phát hiện và kết luận, kiến nghị xử lý 305 văn bản, gồm 238 VBQPPL có quy định trái pháp luật về nội dung, thẩm quyền ban hành (trong đó có 100 văn bản ban hành trong năm 2021) và 67 văn bản không phải là VBQPPL nhưng có chứa quy phạm pháp luật. Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp đã kiểm tra 4.219 văn bản (gồm 451 văn bản của cơ quan cấp bộ; 3.768 văn bản của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh); qua kiểm tra đã kết luận, kiến nghị xử lý đối với 80 văn bản có quy định trái pháp luật về thẩm quyền, nội dung (gồm 09 văn bản của cơ quan cấp bộ; 71 văn bản của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh)[8]. Năm 2022, Ngành Tư pháp đã rà soát 27.878 VBQPPL, kiến nghị xử lý (sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới) đối với 5.731 văn bản[9].
Trên thực tế, vẫn còn tình trạng một số VBQPPL được ban hành không thể đi vào cuộc sống, thậm chí gây khó khăn và lãng phí cho người dân và xã hội như: Quy định người “ngực lép” không được cấp giấy phép lái xe tại Quyết định số 4132/2001/QĐ-BYT ngày 04/10/2001 của Bộ Y tế về việc ban hành bản “Tiêu chuẩn sức khỏe người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới”. Quy định về chính sách ưu tiên trong tuyển sinh đại học đối với Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Người hoạt động cách mạng trước ngày 01/01/1945; Người hoạt động cách mạng từ ngày 01/01/1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 tại Thông tư số 24/2013/TT-BGDĐT ngày 04/7/2013 của Bộ Giáo dục và Đào tạo…
Có nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng nêu trên. Trước hết là những nguyên nhân khách quan như: Bối cảnh của nền kinh tế đất nước đang trong giai đoạn chuyển đổi, điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi nhanh, các vấn đề xã hội mới phát sinh chưa có tiền lệ, các vấn đề có tác động rộng vượt ra khỏi giới hạn về địa lý, lãnh thổ như dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng tài chính... diễn ra với tần suất thường xuyên và tính chất ngày càng phức tạp... trong khi nguồn lực tài chính và con người dành cho công tác xây dựng pháp luật còn hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Bên cạnh đó là các nguyên nhân chủ quan như: Nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của công tác xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật ở một số nơi còn chưa đầy đủ; sự quan tâm, vào cuộc của các cấp chính quyền đối với các công tác còn chưa quyết liệt tại một số địa phương, cơ quan, đơn vị; việc đánh giá tác động chính sách, cũng như tổ chức lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, đặc biệt là đối tượng chịu sự tác động của chính sách trong quá trình xây dựng một số văn bản còn mang tính hình thức; vẫn còn tư tưởng coi trọng lợi ích ngành, lĩnh vực mà chưa quan tâm thỏa đáng đến lợi ích chung của xã hội trong xây dựng pháp luật...
Bên cạnh các nhiệm vụ, giải pháp mang tính tổng thể thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW và Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 27-NQ/TW và Nghị quyết số 28-NQ/TW đã đặt ra yêu cầu cần chống tiêu cực, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ trong xây dựng pháp luật. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng nhằm ngăn chặn tình trạng tham nhũng, tiêu cực trong xây dựng pháp luật, qua đó, góp phần bảo đảm quá trình xây dựng pháp luật được diễn ra khách quan, minh bạch, các văn bản pháp luật khả thi, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và như vậy sẽ thực hiện có hiệu quả đột phá chiến lược về hoàn thiện thể chế tại Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng và nhiệm vụ về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, cũng như nhiệm vụ về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới.
3. Một số đặc điểm của hoạt động xây dựng pháp luật
Với vai trò là công cụ quan trọng, không thể thiếu để điều chỉnh xã hội, pháp luật có tác động rất lớn đến mọi mặt đời sống xã hội. Do đó, việc để cho các yếu tố tiêu cực, lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm tác động đến quá trình xây dựng pháp luật, làm biến dạng các nội dung của quy phạm pháp luật sẽ gây ra những hệ lụy rất lớn, làm cản trở sự phát triển của xã hội. Kiểm soát quyền lực, phòng, chống lợi ích nhóm, tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật trở thành vấn đề cấp thiết, song đây là vấn đề phức tạp cần phải nghiên cứu, đánh giá tác động kỹ lưỡng, bảo đảm vừa thực hiện được mục tiêu đã đặt ra là không có “vùng cấm” trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, làm cho công tác xây dựng pháp luật thực sự trong sạch, đồng thời vừa thực hiện có hiệu quả đột phá chiến lược về hoàn thiện thể chế, vừa thực hiện được chủ trương khuyến khích cán bộ dám nghĩ, dám đề xuất những biện pháp, giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề có bất cập hoặc vấn đề mới phát sinh, tránh gây ra hiện tượng “chảy máu chất xám” trong điều kiện nguồn nhân sự trong lĩnh vực này hiện còn hạn chế, trong khi việc tuyển dụng nguồn nhân lực cao vào các bộ, cơ quan hoạch định chính sách đang gặp nhiều khó khăn.
Để triển khai có hiệu quả nhiệm vụ nêu trên rất cần có giải pháp phù hợp, trong đó phải tính đến yếu tố đặc thù của pháp luật, cũng như làm rõ nội hàm của các khái niệm về “lợi ích nhóm”, “lợi ích cục bộ”. Trước hết, có thể nhận thấy một số đặc trưng của công tác xây dựng pháp luật như sau:
Thứ nhất, pháp luật là sản phẩm của hoạt động tư duy nên không thể tách rời yếu tố chủ quan của con người. Những định hướng, chính sách, nội dung cụ thể của VBQPPL phụ thuộc rất lớn vào khả năng nhận thức và năng lực tư duy của người xây dựng pháp luật. Pháp luật được hình thành trên nền thực tại khách quan được xử lý thông qua quá trình tư duy sáng tạo nên thường có “độ trễ” hơn so với thực tiễn. Tuy nhiên, do là sản phẩm của hoạt động tư duy sáng tạo nên pháp luật cũng chứa đựng các yếu tố “vượt thời gian”, đi trước thực tiễn. Trong cả hai trường hợp này đều không thể tránh khỏi tình trạng có những quy định lạc hậu hoặc phản ánh không chính xác thực tiễn mà nguyên nhân là do các điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi so với dự liệu của người xây dựng pháp luật.
Thứ hai, pháp luật không thể được xây dựng bởi một người mà phải có sự tham gia của rất nhiều cơ quan, đơn vị, cá nhân. Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), việc xây dựng VBQPPL được thực hiện qua nhiều bước, nhiều công đoạn có sự tham gia của nhiều chủ thể. Do đó, pháp luật là sản phẩm của trí tuệ tập thể mà mỗi người từ thành viên ban soạn thảo, tổ biên tập, người góp ý, các cấp quyết định sẽ tham gia vào quá trình xây dựng ở những vai trò, góc độ khác nhau.
Thứ ba, quá trình xây dựng VBQPPL đã có sự kiểm soát giữa các cơ quan, chủ thể có thẩm quyền trong công tác xây dựng văn bản. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định trách nhiệm của cơ quan đề xuất, soạn thảo, cơ quan thẩm định, thẩm tra, cơ quan ban hành văn bản, các tổ chức tham mưu khác như: Ban soạn thảo, Tổ biên tập, Hội đồng thẩm định... nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ và tính khả thi của dự thảo. Trong quá trình tham gia, các cơ quan này cũng phải xem xét, cân nhắc ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan bảo đảm sự hài hòa về lợi ích của các nhóm đối tượng chịu tác động của văn bản. Ngoài ra, Luật này cũng quy định những biện pháp, giải pháp nhằm kiểm tra, giám sát, đánh giá việc ban hành văn bản như hoạt động giám sát của các chủ thể có thẩm quyền, kiểm tra, theo dõi... qua đó phát hiện những mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp của VBQPPL.
4. Vấn đề tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ và các giải pháp chống tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ trong xây dựng pháp luật
Pháp luật là biểu hiện cao nhất của trí tuệ tập thể, trong đó, mỗi cá nhân, cơ quan có trách nhiệm rất cụ thể trong quá trình xây dựng pháp luật. Do đó, khi xem xét đến trách nhiệm của mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức cần rất thận trọng, làm rõ quá trình tham gia, tính chất và mức độ ảnh hưởng, vai trò tác động của mỗi cá nhân, tập thể đến việc hình thành VBQPPL.
Bên cạnh các yếu tố mang tính đặc trưng của pháp luật, thì cũng cần minh định rõ nội hàm của các khái niệm “lợi ích nhóm”, “lợi ích cục bộ” để từ đó nhận diện chính xác, đầy đủ và toàn diện hơn. Có thể thấy rằng, pháp luật là tấm gương phản chiếu, chuyển tải quyền, lợi ích của các cá nhân, tổ chức, nhóm người trong xã hội, trong đó, những quyền, lợi ích phù hợp với lợi ích chung và xu thế phát triển xã hội sẽ được ghi nhận; những lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ xuất phát từ yếu tố lợi ích vật chất hoặc lỗi cố ý của những người xây dựng pháp luật làm cho các quy định pháp luật trở nên thiếu khách quan, phản ánh sai lệch thực tế, đi ngược lợi ích chung của xã hội là những yếu tố cần phải loại bỏ.
Yếu tố tiêu cực, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ được thể hiện trong một số trường hợp sau: (i) Người xây dựng pháp luật vì tư lợi mà dẫn đến tiêu cực, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ trong xây dựng pháp luật; (ii) Người xây dựng pháp luật mặc dù không tư lợi nhưng biết hoặc có khả năng, điều kiện để biết mà vẫn lựa chọn các quy định phản ánh lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ thay vì lợi ích chung; (iii) Người xây dựng pháp luật không tư lợi nhưng do khả năng nhận thức hoặc do điều kiện khách quan về thông tin phục vụ cho công tác xây dựng pháp luật chưa đầy đủ, chính xác, điều kiện kinh tế - xã hội diễn biến quá nhanh khó dự liệu, đã tác động đến việc đưa ra các ý kiến, quyết định có biểu hiện của lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ.
Đối với trường hợp vì lợi ích vật chất, tư lợi thì cần phải xử lý nghiêm khắc, tùy theo mức độ hành vi vi phạm và hậu quả gây ra để xem xét trách nhiệm kỷ luật hoặc trách nhiệm hình sự người xây dựng pháp luật. Đối với trường hợp cố ý lựa chọn lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm mà từ bỏ lợi ích chung nhưng không có yếu tố lợi ích vật chất, tư lợi thì cần có cơ chế xử lý trách nhiệm công vụ, điều chuyển công tác khác, để bảo đảm giữ gìn kỷ cương, kỷ luật trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng pháp luật. Những trường hợp thuộc về khả năng nhận thức, cũng như tác động của các điều kiện khách quan như nguồn lực tài chính, con người, sự thay đổi nhanh chóng của các điều kiện kinh tế - xã hội… thì cần tập trung tăng cường nguồn lực, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật. Trong quá trình xem xét trách nhiệm, cơ quan có thẩm quyền cần cân nhắc đến yếu tố đặc thù của pháp luật, trách nhiệm cá nhân, tập thể trong việc đề xuất, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, quyết định việc ban hành VBQPPL, tránh việc “bỏ sót” hoặc xử lý không đúng người vi phạm.
Ngoài ra, các cơ quan cần tiếp tục thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã được Đảng, Nhà nước đề ra, trong đó tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp: (i) Quan tâm bố trí nguồn lực tài chính trong xây dựng pháp luật, nghiên cứu, sửa đổi quy định về kinh phí xây dựng pháp luật theo hướng tăng mức kinh phí xây dựng văn bản, bảo đảm thực hiện tốt các hoạt động từ nghiên cứu, khảo sát, đánh giá tác động, tổ chức hội thảo, hội nghị, điều tra xã hội học, tổng hợp...; (ii) Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật, có cơ chế thu hút người có năng lực vào làm công tác này, đồng thời có chính sách đãi ngộ hợp lý cả về phụ cấp, chế độ bồi dưỡng, quan tâm đến công tác cán bộ đối với người làm công tác xây dựng pháp luật; (iii) Thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các quy định pháp luật về ban hành VBQPPL, trong đó, lưu ý các hoạt động tổng kết thực tiễn, đánh giá chính sách; tăng cường minh bạch trong quá trình xây dựng văn bản; tăng cường chất lượng của các hồ sơ, tài liệu như báo cáo đánh giá tác động, báo cáo lồng ghép vấn đề bình đẳng giới, báo cáo đánh giá thủ tục hành chính, báo cáo kinh nghiệm nước ngoài...; (iv) Tăng cường đối thoại chính sách, mở rộng phạm vi tham gia của các tổ chức, cá nhân trong xã hội, lấy ý kiến của người dân, tổ chức, doanh nghiệp, nhất là đối tượng chịu tác động của các quy định pháp luật; (v) Tăng cường kiểm soát quyền lực trong công tác xây dựng pháp luật, trong đó, nâng cao năng lực, trách nhiệm của các cơ quan thẩm định, thẩm tra; tăng tỷ lệ đại biểu chuyên trách và tính chuyên nghiệp trong hoạt động lập pháp của Quốc hội; thực hiện kiểm soát quyền lực ngay trong từng cơ quan xây dựng pháp luật thông qua vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu; mở rộng cơ chế tham gia góp ý, giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội; (vi) Tập trung thực hiện có hiệu quả các công tác bổ trợ cho việc xây dựng pháp luật như: Công tác kiểm tra VBQPPL; rà soát, hệ thống hóa VBQPPL, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật...
ThS. Bùi Công Quang
Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức hành chính nhà nước và Công vụ, Văn phòng Chính phủ
[1]. Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
[2]. Theo Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 01/01/2023 của Bộ Tư pháp về Tổng kết công tác tư pháp năm 2022 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2023, năm 2022, Chính phủ đã tổ chức 8 phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật (tháng 01, 02, 03, 07, 08, 09, 11, 12/2022).
[3]. Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 01/01/2021 về tổng kết công tác tư pháp năm 2020, nhiệm kỳ 2016 - 2020; định hướng nhiệm kỳ 2021 - 2025 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2021 của Bộ Tư pháp.
[4]. Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 01/01/2022 của Bộ Tư pháp về Tổng kết công tác tư pháp năm 2021 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2022.
[5]. Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
[6]. Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 01/01/2021 về tổng kết công tác tư pháp năm 2020, nhiệm kỳ 2016 - 2020; định hướng nhiệm kỳ 2021 - 2025 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2021 của Bộ Tư pháp.
[7]. Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 01/01/2022 của Bộ Tư pháp về Tổng kết công tác tư pháp năm 2021 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2022.
[8]. https://baochinhphu.vn/kiem-tra-ra-soat-van-ban-phap-luat-kip-thoi-than-trong-chinh-xac-quyet-liet-102220701145243283.htm.
[9]. Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 01/01/2023 của Bộ Tư pháp về Tổng kết công tác tư pháp năm 2022 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2023.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 394), tháng 12/2023)