1. Những hạn chế và khó khăn trong việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hình sự
Trong Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (gọi tắt là Bộ luật Hình sự năm 1999) đã có quy định liên quan đến các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (SHTT), đến Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi tắt là Bộ luật Hình sự năm 2015) có những sự thay đổi để phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng chống nhóm tội phạm này. Cụ thể, pháp luật hình sự hiện hành đã bỏ tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo hướng cụ thể hóa số tiền thu lợi bất chính hoặc giá trị thiệt hại gây ra cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan (hoặc chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý) hoặc giá trị hàng hóa vi phạm làm cơ sở để định tội và định khung hình phạt; quy định trách nhiệm của pháp nhân thương mại khi vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan, cũng như vi phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Ngoài ra, Bộ luật Hình sự năm 2015 còn sửa đổi, bổ sung một số quy định khác liên quan đến các tội phạm này như tách Điều 157 Bộ luật Hình sự năm 1999 thành 02 tội danh độc lập[1]; mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền... làm cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm quyền SHTT.
Bên cạnh sự ra đời của Bộ luật Hình sự năm 2015, các văn bản pháp luật khác như Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 cũng được ban hành, tạo khung pháp lý đầy đủ và vững chắc cho việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm nói chung và các tội xâm phạm quyền SHTT nói riêng. Tuy nhiên, còn những rào cản cơ bản đối với việc thực thi quyền SHTT bằng biện pháp hình sự, cụ thể:
Một là, hạn chế trong quy định của pháp luật hình sự. Mặc dù, Bộ luật Hình sự năm 2015 về cơ bản đã khắc phục được những hạn chế trong Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm quyền SHTT, tuy nhiên qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy, trong pháp luật hình sự hiện hành vẫn còn một số hạn chế, vướng mắc như:
- Trong các tội xâm phạm quyền SHTT, thì tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp chỉ được khởi tố khi có đơn yêu cầu của người bị hại. Lợi dụng quy định này, các đối tượng thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp khi bị phát hiện thì sử dụng thủ đoạn thỏa thuận, mua chuộc các chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp để họ không yêu cầu khởi tố vụ án. Điều này, đã tạo ra khó khăn cho công tác phát hiện, điều tra, xử lý các hành vi trên, đồng thời không đảm bảo tính răn đe của pháp luật.
- Bộ luật Hình sự năm 2015 vẫn chưa làm rõ dấu hiệu định tội “với quy mô thương mại” trong tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Hiện nay, thuật ngữ “quy mô thương mại” được hiểu theo nhiều cách khác nhau và được diễn giải khác nhau ở từng quốc gia. Nhìn chung hành vi xâm phạm với “quy mô thương mại” được hiểu là: (i) Các hành vi được thực hiện một cách có chủ ý nhằm mục đích sinh lợi, không kể giá trị của vi phạm; (ii) Hoặc là những hành vi tuy không nhằm mục đích sinh lợi nhưng gây ảnh hưởng lớn đến quyền khai thác tài sản trí tuệ của chủ thể quyền.
Nếu thừa nhận cách hiểu chung như (i) dẫn tới không tính đến giá trị vi phạm thì sẽ truy cứu trách nhiệm tràn lan bất kỳ số lượng, giá trị nào. Còn nếu hiểu theo (ii) thì việc thế nào là gây ảnh hưởng đến quyền khai thác tài sản trí tụệ, lại không cụ thể, khó xác định.
Có quan điểm cho rằng[2], “quy mô thương mại” đã được cụ thể hóa ở Thông tư liên tịch số 01/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 29/02/2008 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sư đối với các hành vi xâm phạm quyền SHTT. Đó là đánh giá bằng tiêu chí mức độ từ nghiêm trọng đến đặc biệt nghiêm trọng thể hiện bằng tiêu chí lợi nhận. Như vậy, “quy mô thương mại” được hiểu là “từ mức độ nghiêm trọng trở lên cho đến rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng” và mức độ được xác định bằng lợi nhuận, giá trị gây thiệt hại và giá trị hàng hóa. Tuy nhiên, ngay trong dấu hiệu định tội của hai tội danh này đã đề cập đến khoản “thu lợi bất chính”, “giá trị gây thiệt hại” và “giá trị hàng hóa vi phạm”[3], như vậy thuật ngữ “quy mô thương mại” không thể hiểu theo cách này.
- Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 2015 chỉ quy định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý, nhưng theo quy định của khoản 4 Điều 4 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), thì nội hàm của quyền sở hữu công nghiệp còn bao gồm: Sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, tên thương mại và bí mật kinh doanh. Trong các đối tượng này ta thấy rằng, sáng chế, bí mật kinh doanh là những đối tượng rất quan trọng của quyền sở hữu công nghiệp, quyết định vấn đề thành công hay thất bại của các chủ thể kinh doanh. Do đó, các hành vi xâm hại cũng có thể gây ra những hậu quả rất lớn đối với chủ thể quyền sáng chế hoặc bí mật kinh doanh, nhưng vẫn chưa được pháp luật hình sự bảo vệ.
- Chưa có sự phân định rõ ràng giữa tội sản xuất buôn bán hàng giả với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong trường hợp đối tượng hàng giả là nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý. Đây chính là trường hợp sử dụng các dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức không thể phân biệt được với nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ cho cùng một loại hàng hóa. Điều này dẫn đến việc một hành vi xâm phạm nhưng thỏa mãn nhiều tội danh, khiến việc áp dụng tùy tiện, không thống nhất và không công bằng trong tố tụng hình sự[4].
Hai là, tình hình tội phạm xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ngày càng đa dạng, phức tạp
Đầu tháng 5/2012, cơ quan đại diện thương mại Hoa Kỳ đã công bố báo cáo hàng năm về tình hình bảo hộ SHTT ở các nước đối tác của Hoa Kỳ trên thế giới, trong đó đáng lưu ý là Báo cáo đặc biệt số 301 trong 2 năm liên tiếp 2014 và 2015, Văn phòng Bộ Thương mại Hoa Kỳ (USTR) đã xếp Việt Nam vào danh sách các quốc gia cần ưu tiên theo dõi về tình trạng xâm phạm quyền SHTT.
Theo thống kê từ Chương trình phối hợp hành động phòng và chống xâm phạm quyền SHTT (Chương trình 168) giai đoạn II[5], trong giai đoạn 2012-2015, các lực lượng chức năng của các Bộ, ngành đã chủ trì, phối hợp tiến hành thanh tra, kiểm tra 25.966 vụ việc có dấu hiệu xâm phạm quyền SHTT, sản xuất, buôn bán hàng giả. Qua đó, đã xử lý vi phạm hành chính 25.543 vụ việc, trong đó cảnh cáo 68 vụ việc, phạt tiền 23.197 vụ việc với tổng số tiền phạt gần 97 tỷ đồng, khởi tố 381 vụ với 553 bị can, xét xử 55 vụ.
Từ thống kê trên, có thể thấy rằng, các hành vi xâm phạm quyền SHTT ngày càng diễn biến phức tạp, số vụ vi phạm rất lớn. Tuy nhiên, phần lớn các vụ việc đều được xử lý bằng biện pháp hành chính, tỷ lệ vụ việc bị khởi tố và xét xử vụ án hình sự rất ít. Lý do chủ yếu là đa số các hành vi vi phạm chưa đủ yếu tố để cấu thành tội phạm, mặt khác biện pháp hành chính dễ áp dụng hơn so với việc áp dụng biện pháp hình sự. Điều này dẫn đến thực trạng các hành vi xâm phạm vẫn gia tăng vì (một phần) chế tài không đủ sức răn đe, không tương xứng với hành vi xâm phạm. Các hành vi phạm tội chủ yếu tập trung vào các tội liên quan đến hàng giả và quyền sở hữu công nghiệp, các hành vi này ngày càng tăng về số lượng và rất tinh vi, phức tạp.
Ba là, cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hình sự còn yếu. Hiện nay, ở Việt Nam có 06 cơ quan thực thi quyền SHTT là công an, Tòa án, quản lý thị trường, hải quan, thanh tra chuyên ngành, Ủy ban nhân dân các cấp. Tuy đã có sự phân công chức năng, nhiệm vụ của từng ngành trong lĩnh vực thực thi quyền SHTT, nhưng vẫn tồn tại thực tế là các ngành chức năng hoạt động chưa thực sự hiệu quả, chồng chéo nhau. Sự phối hợp liên kết giữa các ngành còn thiếu chặt chẽ, do đó các hành vi xâm phạm không được khởi tố kịp thời hoặc khi bị khởi tố, thì cơ quan điều tra gặp nhiều khó khăn trong việc thu thập chứng cứ, chứng minh vụ án, chưa kể các vụ án này phần lớn liên quan đến các doanh nghiệp, tuy nhiên các doanh nghiệp cũng ít phối hợp để giải quyết. Bên cạnh đó, có nhiều thẩm phán, điều tra viên, ít được đào tạo về SHTT nên gây khó khăn trong việc nhận diện tội phạm, đặc biệt là những trường hợp phạm tội về nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, mặt khác chúng ta cũng chưa có tòa án chuyên ngành để thụ lý, giải quyết nên rất khó khăn.
Bốn là, thách thức từ các chuẩn mực cao về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong các hiệp định thương mại quốc tế. Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đã và đang tham gia nhiều hiệp định thương mại quốc tế có liên quan đến SHTT. Phần lớn các hiệp định này đều đưa ra các tiêu chuẩn bảo hộ quyền SHTT ở mức độ cao như: Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)… đòi hỏi pháp luật SHTT Việt Nam phải hoàn thiện và tương thích. Trong các hiệp định, thì TRIPs được đánh giá là hiệp định toàn diện nhất về SHTT. Theo Điều 61 Hiệp định TRIPs thì “các thành viên phải quy định việc áp dụng các thủ tục hình sự và các hình phạt để áp dụng ít nhất đối với các trường hợp cố tình giả mạo nhãn hiệu hàng hoá hoặc vi phạm bản quyền với quy mô thương mại”. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã cụ thể hóa quy định này trong hai tội danh đó là tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, cấu thành tội phạm của hai tội danh khá tương thích với quy định của TRIPs. Bên cạnh TRIPs, Hiệp định EVFTA, Hiệp định CPTPP được xem là những hiệp định rất quan trọng đối với việc hội nhập, phát triển nền kinh tế Việt Nam, đặt ra rất nhiều thách thức về bảo hộ quyền SHTT như bảo hộ về quyền tác giả, về sở hữu công nghiệp, về dược phẩm... Những chuẩn mực cao trong các hiệp định chính là động lực thúc đẩy chúng ta hoàn thiện về pháp luật, về biện pháp thực thi quyền SHTT, nhưng cũng là những thách thức đòi hỏi chúng ta phải vượt qua. Đảm bảo vấn đề thực thi quyền SHTT là một trong những yếu tố quyết định đến hiệu quả và sự tương thích trong quy định về SHTT của pháp luật quốc gia với luật quốc tế. Tuy nhiên, biện pháp hình sự (cho đến nay) vẫn chưa thật sự phát huy hiệu quả áp dụng, chúng ta vẫn thiên nhiều về áp dụng biện pháp hành chính đối với những vi phạm, điều này tạo thành “thói quen” áp dụng và hạn chế mục đích răn đe của pháp luật.
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hình sự
Đứng trước những rào cản và thách thức hiện nay liên quan đến thực thi quyền SHTT bằng biện pháp hình sự, việc tìm ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và các cơ chế thực thi là rất cần thiết, trong phạm vi bài viết này, tác giả xin đề xuất một số giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, giải pháp khắc phục những hạn chế trong các quy định của Bộ luật Hình sự
- Bổ sung thêm vào Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 2015 về đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp là sáng chế và bí mật kinh doanh. Như vậy, đối tượng quyền sở hữu công nghiệp của tội phạm này sẽ gồm có: nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, sáng chế và bí mật kinh doanh. Quy định này nhằm mục đích bảo hộ đầy đủ và phù hợp hơn đối với các đối tượng thuộc quyền sở hữu công nghiệp trước các hành vi xâm phạm bị coi là tội phạm.
- Ban hành văn bản hướng dẫn dấu hiệu “với quy mô thương mại” hoặc bỏ dấu hiệu này. Bởi vì theo quy định tại khoản 1 Điều 225 và Điều 226 thì dấu hiệu định tội bao gồm: (i) Hành vi xâm phạm “với quy mô thương mại” hoặc (ii) căn cứ vào “lợi nhuận”, “giá trị gây thiệt hại”, “trị giá hàng hóa vi phạm”[6], như vậy dấu hiệu (ii) đã thể hiện được “quy mô thương mại”. Thực chất, dấu hiệu này được đưa vào từ Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 2009 cho phù hợp với TRIPs, tuy nhiên trong Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 2009 chưa quy định rõ ràng các dấu hiệu (ii) như trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và đến thời điểm trước khi có Bộ luật Hình sự năm 2015, chúng ta vẫn ngầm hiểu thuật ngữ “với quy mô thương mại” như dấu hiệu (ii) mà Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định, nên vô hình chung, dấu hiệu “với quy mô thương mại” hiện nay làm cho điều luật không rõ ràng, thậm chí bị dư thừa.
- Ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể trường hợp nào thì hành vi giả về nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý sẽ áp dụng các tội về sản xuất buôn bán hàng giả để giải quyết, trường hợp nào sẽ áp dụng tội xâm phạm sở hữu công nghiệp. Có quan điểm cho rằng[7], trên thực tế, chỉ cần áp dụng Điều 226 là đã bao hàm hết tất cả các dạng hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp về nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý, trong đó bao gồm cả hành vi giả mạo về hình thức. Tác giả đồng ý với quan điểm này, do đó nếu rơi vào trường hợp này, chúng ta sẽ thống nhất xử lý về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp mà không áp dụng các tội về sản xuất buôn bán hàng giả.
Ngoài ra, để tránh trường hợp người phạm tội mua chuộc hoặc có các thủ đoạn để người bị hại không yêu cầu hoặc rút đơn khởi tố, gây khó khăn cho quá trình tố tụng, Bộ luật Tố tụng hình sự không nên quy định tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là tội danh chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại hoặc là người đại diện hợp pháp của người bị hại. Tội danh này, không chỉ xâm phạm đến chủ thể quyền mà còn xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế và đặc biệt xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, do đó Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 càng không nên đưa tội danh này vào.
Thứ hai, cần hoàn thiện cơ chế thực thi quyền SHTT và nâng cao năng lực chuyên môn về SHTT cho đội ngũ chuyên trách. Thực hiện biện pháp này thông qua việc mở các khóa đào tạo, tập huấn chuyên sâu về lĩnh vực SHTT cho kiểm sát viên, điều tra viên, thẩm phán về SHTT. Các cá nhân, tổ chức có liên quan đến việc giải quyết các tội phạm phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, đặc biệt là trong giai đoạn điều tra thu thập chứng cứ, chứng minh vụ án. Ngoài ra, những vụ việc nào có dấu hiệu tội phạm thì phải xem xét khởi tố kịp thời để đảm bảo tính răn đe và áp dụng chế tài tương xứng với hành vi xâm phạm, tránh trường hợp “lạm dụng” áp dụng biện pháp hành chính để giải quyết.
Thứ ba, các doanh nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam cần chú trọng hơn đến quyền SHTT. Để thực thi quyền SHTT bằng biện pháp hình sự hiệu quả, doanh nghiệp và người tiêu dùng đóng vai trò rất to lớn. Đối với doanh nghiệp phải xác định rõ tầm quan trọng của tài sản trí tuệ, coi tài sản trí tuệ là một bộ phận không tách rời trong khối tài sản nói chung của doanh nghiệp để biết tự bảo vệ tài sản trí tuệ của mình. Để làm tốt vấn đề này, các doanh nghiệp cần tự trang bị cho mình kiến thức về SHTT cũng như xây dựng cơ chế bảo hộ quyền SHTT của doanh nghiệp mình nhằm phòng ngừa và chống lại những hành vi xâm phạm quyền SHTT. Điều này còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi Việt Nam tham gia các Hiệp định thương mại quốc tế có chuẩn mực về quyền SHTT như TRIPs, CPTPP, EVFTA... như tác giả đã đề cập. Bên cạnh đó, cần nâng cao ý thức của người tiêu dùng về pháp luật SHTT nói chung và các tội xâm phạm quyền SHTT nói riêng để mọi người hiểu được tác hại của việc xâm phạm quyền SHTT, hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của cá nhân, đơn vị, tổ chức mình, từ đó, người dân sẽ tự giác không sử dụng hàng giả, hàng vi phạm quyền SHTT, đồng thời tích cực tham gia cùng lực lượng chức năng phát hiện đấu tranh và ngăn ngừa tội phạm một cách hiệu quả.
Từ những khó khăn, hạn chế trên đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực tìm kiếm giải pháp hoàn thiện và nghiêm túc thực hiện các giải pháp khắc phục những rào cản nhằm đảm bảo khả năng thực thi quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hình sự, góp phần vào công tác đấu tranh phòng ngừa và chống loại tội phạm này, cũng như tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, thu hút đầu tư và phát triển nền kinh tế của đất nước trong giai đoạn hội nhập hiện nay.
Khoa Luật Hình sự, Đại học Luật - Đại học Huế